Một là, không giao dịch bằng niềm hy vọng. Nguyên tắc này có thể hiểu là khi chúng ta muốn tham gia vào một vị thế dù là trading hay đầu tư thì chúng ta cần phải có căn cứ cụ thể. Căn cứ này có thể dựa trên các yếu tố như các chỉ báo kỹ thuật hay những phân tích về doanh nghiệp. Căn cứ này không những giúp chúng ta có tỷ suất sinh lời tốt hơn, nó còn giúp chúng ta có thể vững tâm hơn trước những biến động của thị trường.
Hai là, nguyên tắc bảo toàn vốn. Nếu đầu tư mọi người luôn muốn vào với giá rẻ để hạn chế đến mức thấp nhất khả năng phải cắt lỗ khi giá cổ phiếu giảm, dù vậy có những lúc chúng ta phải chấp nhận cắt lỗ để bảo toàn vốn.
Ba là không đặt ngưỡng chốt lời cứng. Với nguyên tắc này, mỗi người sẽ áp dụng theo cách khác nhau. Chuyên gia cho biết việc tránh đặt ra ngưỡng chốt lời cứng hạn chế được việc giao dịch bị neo cứng vào giá.
Như trường hợp một người đặt ra nguyên tắc khi cổ phiếu lãi 10% sẽ thực hiện chốt lời, trong kịch bản thị trường còn tốt, cổ phiếu còn khả năng tăng trưởng, dòng tiền còn chảy mạnh, các chỉ báo kỹ thuật còn cho thấy rằng cổ phiếu còn tiếp tục chạy mà chúng ta lại chốt lời một cách cứng 10% thì có thể mất lãi.
Bốn là đa dạng hóa vừa phải, nhà đầu tư chỉ nên nắm giữ tối đa 5 cổ phiếu trong một danh mục.
Khi chúng ta sở hữu khoảng 5 mã cổ phiếu, mỗi mã phân bổ với tỷ lệ 20% danh mục thì trong trường hợp một mã cổ phiếu lỗ 5% và chúng ta thực hiện cắt lỗ thì toàn bộ danh mục chỉ lỗ 1%. Nguyên tắc chung của nhiều nhà trader kỳ cựu là toàn bộ danh mục không được lỗ quá 4%. Do nếu như thua lỗ quá nhiều thì tổn thương tâm lý quá lớn, chúng ra rơi vào trạng thái hoảng sợ và nỗi sợ này có thể dẫn tới việc khi có cơ hội nhà đầu tư cũng không dám mua.
Năm là, phân biệt rõ giao dịch trading và đầu tư, không thể để trưởng hợp đầu cơ sai biến thành đầu tư. Đầu cơ sai thì chắc chắn phải cắt lỗ, đầu tư thì phải vào vị thế với điểm mua đẹp ngay từ đầu với mức giá thấp. Đấy là hai yếu tố khác nhau hoàn toàn về cách tiếp cận.
Ông Hoàng Công Tuấn - Kinh tế trưởng MBS cho biết thêm, có 2 cách để nhận diện vùng đáy dài hạn của thị trường chứng khoán.
Về các tín hiệu thị trường, có 6 yếu tố:
Thứ nhất, thanh khoản thị trường giảm mạnh so với khoảng thời gian thị trường bùng nổ trước đó, không chỉ giảm 10-20% mà có thể lên đến 50%. Bởi khi giá cổ phiếu ở mức rất rẻ thì lực bán cũng sẽ giảm đi đáng kể.
Thứ hai, tỷ lệ đòn bẩy thấp . Bên cạnh những yếu tố vĩ mô cơ bản, tỷ lệ đòn bẩy cao cũng là một trong những nguyên nhân khiến thị trường có những giảm nhanh sập mạnh khi áp lực giải chấp lan trên diện rộng. Do đó, thời điểm tỷ lệ đòn bẩy của thị trường xuống mức thấp cũng là lúc vùng đáy xuất hiện.
Thứ ba, các nhà đầu tư lớn mua vào . Thực tế, dòng tiền của nhà đầu tư nhỏ lẻ không thể tạo ra trend lớn, chỉ khi dòng tiền lớn nhập cuộc thị trường mới có thể đi lên bền vững.
Thứ tư, tâm lý bi quan cùng cực nhưng giá không giảm . Khi ai cũng đứng ngoài quan sát và tìm cơ hội mua trong tương lai thì đó cũng là thời điểm thị trường tạo đáy.
Thứ năm, các cổ phiếu có triển vọng tốt âm thầm tăng giá. Mặc dù có nhiều doanh nghiệp yếu kém giá cổ phiếu giảm tương đương VN-Index ở vùng đáy 900 điểm, song nhiều doanh nghiệp có nền tảng tốt đã phục hồi đáng kể từ đáy.
Thứ sáu, thị trường trơ với thông tin xấu. Có nghĩa là khi giá cổ phiếu đã phản ánh hết yếu tố tiêu cực, những tin xấu tiếp theo xuất hiện cũng không thể khiến giá giảm thêm. Đây cũng là một dấu hiệu nhận diện thị trường đã thực sự tạo đáy và chỉ chờ thời điểm đi lên.
Về tín hiệu cơ bản, chuyên gia MBS nhấn mạnh một vài yếu tố (1) đỉnh lãi suất và lạm phát (2) chu kỳ nới lỏng hình thành, (3) lợi nhuận doanh nghiệp tạo đáy (4) định giá thị trường thấp, (5) dòng tiền khôn ngoan xuất hiện.
Riêng về phương pháp nhận diện dòng tiền thông minh, ông Tuấn cho rằng cần quan sát kỹ động thái của một số quỹ đầu tư lớn, tỷ lệ tiền mặt của các quỹ cao có nghĩa họ đang tìm cơ hội để mua vào. Bên cạnh đó, nhà đầu tư nên theo dõi dòng tiền của khối ngoại.
Hằng Nga