Theo PGS. TS. Bùi Quang Tuấn, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, đất nước vẫn chưa thoát khỏi mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, đất đai và lao động giá rẻ. Đây là một hồi chuông cảnh báo về sự lệch lạc trong động lực tăng trưởng và các hệ lụy tiềm ẩn đối với phát triển bền vững.
Ông Tuấn nhấn mạnh rằng, nguồn lực tài chính và nhân lực đang đóng góp lớn vào GDP, trong khi đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) và lao động lại giảm dần. Điều này cho thấy đầu tư vốn vẫn là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng, thay vì sự cải thiện về năng suất và chất lượng lao động.
Mô hình tăng trưởng hiện tại tiềm ẩn nhiều rủi ro. Khai thác tài nguyên quá mức có thể dẫn đến cạn kiệt, tổn hại môi trường và làm suy yếu nền tảng phát triển bền vững. Sự phụ thuộc vào lao động giá rẻ khiến Việt Nam dễ bị mắc kẹt trong sản xuất gia công với giá trị gia tăng thấp, gây khó khăn trong việc nâng cao thu nhập và đời sống người dân. Thiếu cải thiện năng suất và đổi mới sáng tạo sẽ làm tăng trưởng thiếu bền vững và khó duy trì lâu dài.
Để giải quyết những hạn chế này, Việt Nam cần chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất và đổi mới sáng tạo. Điều này đòi hỏi đầu tư vào giáo dục và đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển kỹ năng và năng lực sáng tạo. Cần khuyến khích đổi mới sáng tạo bằng cách tạo môi trường thuận lợi cho nghiên cứu và phát triển, ứng dụng công nghệ mới. Phát triển kinh tế xanh, chuyển đổi sang các ngành công nghiệp ít carbon, sử dụng hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường cũng là hướng đi quan trọng. Cuối cùng, cải cách thể chế để hoàn thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và minh bạch là không thể thiếu.
Để giảm sự phụ thuộc vào tài nguyên và lao động giá rẻ, Việt Nam cần triển khai một loạt các giải pháp chính sách tập trung vào cải thiện năng suất, đổi mới sáng tạo, và phát triển bền vững. Trước hết, cần đầu tư vào giáo dục và đào tạo bằng cách nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM), đồng thời khuyến khích các chương trình đào tạo nghề để phát triển kỹ năng cho lực lượng lao động, đáp ứng nhu cầu của các ngành công nghiệp hiện đại. Tiếp theo, khuyến khích đổi mới sáng tạo bằng cách tạo môi trường thuận lợi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) thông qua việc hỗ trợ tài chính và cơ sở hạ tầng cho các trung tâm nghiên cứu và các doanh nghiệp khởi nghiệp, cũng như thúc đẩy hợp tác giữa các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp để chuyển giao công nghệ và kiến thức.
Bên cạnh đó, phát triển kinh tế xanh là một yếu tố quan trọng, với việc chuyển đổi sang các ngành công nghiệp ít carbon, sử dụng hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường, cùng với việc khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo và các công nghệ thân thiện với môi trường. Cải cách thể chế và hoàn thiện môi trường kinh doanh cũng cần được chú trọng, bằng cách cải cách các quy định pháp lý để tạo ra một môi trường kinh doanh minh bạch và cạnh tranh lành mạnh, đồng thời giảm thiểu thủ tục hành chính và chi phí không cần thiết cho doanh nghiệp. Thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ và chuỗi giá trị cao thông qua việc phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ để tăng cường khả năng nội địa hóa và giá trị gia tăng trong sản xuất, cùng với việc khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ cao.
Chính sách thu hút đầu tư chất lượng cao cần được triển khai, nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực công nghệ cao và thân thiện với môi trường, đồng thời đảm bảo rằng các dự án đầu tư mang lại lợi ích lâu dài cho nền kinh tế và không gây tổn hại đến môi trường. Bằng cách triển khai các giải pháp này, Việt Nam có thể xây dựng một nền kinh tế bền vững hơn, giảm sự phụ thuộc vào tài nguyên và lao động giá rẻ, nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Các văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong đó, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 đặt ra các mục tiêu cụ thể: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2030 đạt khoảng 7.500 USD; Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khoảng 30% GDP, kinh tế số đạt khoảng 30% GDP; Đóng góp của TFP vào tăng trưởng đạt 50%; Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt trên 6,5%/năm…
Trần Tùng