Trong đó, với sự phát triển bền vững là mục tiêu quan trọng của các quốc gia và tổ chức trên toàn thế giới. Net Zero không chỉ là một lời cam kết giảm khí thải môi trường, mà còn là một hướng đi tất yếu để đảm bảo sự cân bằng giữa sự phát triển kinh tế và sự bảo vệ môi trường.
Một trong những lợi ích quan trọng của Net Zero là giảm thiểu tác động của con người đối với biến đổi khí hậu. Khí thải nhà kính góp phần làm gia tăng hiệu ứng nhà kính, gây ra biến đổi khí hậu và tác động xấu đến môi trường sống. Trở thành quốc gia Net Zero đồng nghĩa với việc giảm bớt ô nhiễm không khí, giảm nguy cơ tăng nhiệt đới, và duy trì một hệ sinh thái lành mạnh cho thế hệ tương lai.
Ngoài ra, Net Zero cũng tạo ra cơ hội phát triển kinh tế và đổi mới công nghệ. Chuyển đổi sang nguồn năng lượng tái tạo và các nguồn năng lượng không gây khí thải giúp tạo ra công việc mới và thúc đẩy sự sáng tạo trong lĩnh vực năng lượng sạch. Các công ty và tổ chức sẽ tìm kiếm các giải pháp sáng tạo để giảm bớt khí thải và tăng cường hiệu suất năng lượng, đồng thời tạo ra cơ hội kinh doanh mới trong lĩnh vực xanh.
Hơn nữa, Net Zero cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng lòng tin và cam kết của cộng đồng quốc tế. Khi các quốc gia và tổ chức tham gia vào cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, nó tạo ra một môi trường hợp tác và giao lưu giữa các quốc gia, thúc đẩy sự đoàn kết và hợp tác toàn cầu.
Tuy nhiên, để đạt được Net Zero, sẽ đòi hỏi sự chung tay và cam kết của tất cả các bên liên quan. Chính phủ, doanh nghiệp, công chúng và các tổ chức phi chính phủ cần hợp tác để thúc đẩy sử dụng nguồn năng lượng sạch, thúc đẩy nghiên cứu và phát triển công nghệ xanh, và xây dựng một hệ thống hạ tầng bền vững.
Để đạt được Net Zero, cần có sự đổi mới và đầu tư lớn vào các công nghệ mới. Các công nghệ tiên tiến như năng lượng mặt trời, gió, thủy điện, năng lượng hạt nhân và năng lượng sinh học đang trở thành những nguồn năng lượng quan trọng để thay thế các nguồn năng lượng gây khí thải. Đồng thời, cần tăng cường nỗ lực nghiên cứu và phát triển để tạo ra các công nghệ mới và hiệu quả hơn trong việc giảm thiểu khí thải.
Như vậy, sự phát triển của Net Zero cũng cần có chính sách hỗ trợ và quy định rõ ràng từ phía Chính phủ. Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp khuyến khích như hỗ trợ tài chính, ưu đãi thuế và quy định nghiêm ngặt để thúc đẩy việc chuyển đổi sang năng lượng sạch. Đồng thời, cần xây dựng các khung pháp lý và quy định liên quan để đảm bảo rằng các công ty và tổ chức tuân thủ và thúc đẩy sự phát triển bền vững.
Theo Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành, Việt Nam đã khẩn trương hành động với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị để đảm bảo các mục tiêu trên sẽ được hiện thực hóa.
Ông Thành cho biết, Việt Nam đã điều chỉnh và ban hành quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, đặt mục tiêu thực hiện thành công chuyển đổi năng lượng công bằng gắn với hiện đại hóa sản xuất, xây dựng lưới điện thông minh, quản trị hệ thống điện tiên tiến, phù hợp với xu thế chuyển đổi xanh, giảm phát thải, phát triển khoa học công nghệ của thế giới. Định hướng đến năm 2050, tỷ lệ năng lượng tái tạo lên đến 67,5-71,5% sản lượng điện sản xuất. Bên cạnh đó thúc đẩy mạnh mẽ áp dụng các giải pháp quản lý công nghệ thiết bị kỹ thuật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả nhằm tiết kiệm chi phí năng lượng đầu vào, giảm giá thành sản xuất, tăng hiệu quả kinh doanh, giảm phát thải khí nhà kính.
Trong khi đó, theo các chuyên gia, phát triển xanh ở Việt Nam đang có 2 thách thức lớn. Thứ nhất là về nguồn vốn, theo Ngân hàng Thế giới (WB), đến năm 2040, Việt Nam sẽ cần 368 tỷ USD để đạt Net Zero, nhưng theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, dư nợ tín dụng xanh của Việt Nam đến 30/6/2023 chỉ đạt gần 528,3 nghìn tỷ đồng. Mặt khác, nguồn vốn tài chính quốc tế cho phát triển xanh cũng không còn rẻ nữa. Hiện, lãi suất của FED, các nước châu Âu ở mức rất cao.
Thứ hai là năng lực đổi mới với phát triển xanh. Trong đó, bao gồm hạ tầng và các điều kiện sản xuất; đào tạo đội ngũ nhân lực và người lao động; các chuẩn mực quản trị điều hành, chuẩn mực công bố thông tin. Điều này dẫn đến quá trình chuyển đổi không phải doanh nghiệp (DN) nào cũng sẵn sàng, đặc biệt là về nguồn vốn đầu tư và hoạt động vận hành.
Đại Hải