Chủ nhật 23/11/2025 00:06
Hotline: 024.355.63.010
Email: banbientap.dnhn@gmail.com
Góc nhìn Chuyên gia

Kinh tế chia sẻ - Lỗ hổng chính sách

01/12/2022 09:45
Việc hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh đối với một số loại hình kinh doanh mới trong KTCS còn gặp một số vướng mắc - bà Dương Thu Hương, đại diện Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp cho biết.
Ảnh minh họa

Bà Dương Thu Hương, đại diện Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp cho biết, Hiến pháp năm 2013 và các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam đã quy định khá chi tiết về quyền tự do kinh doanh. Tuy nhiên, trong thực tiễn, việc hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh đối với một số loại hình kinh doanh mới trong KTCS còn gặp một số vướng mắc.

Về vấn đề quyền tự do kinh doanh, giữa “ghi nhận” quyền tự do kinh doanh và “bảo đảm thực thi” quyền này trên thực tiễn vẫn còn khoảng cách.

“Tư duy “quản không được” hoặc "chưa hiểu rõ" thì cấm gây cản trở việc thực thi quyền tự do kinh doanh trong nền KTCS”, bà Hương chia sẻ.

Trong quyền lợi cho người tiêu dùng bà Hương cũng nêu rõ, pháp luật Việt Nam hiện hành còn thiếu các quy định về quản lý chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ để bảo vệ người tiêu dùng, đặc biệt là xác định rõ hơn nghĩa vụ về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử có liên quan đến KTCS.

Còn về vấn đề lao động và an sinh xã hội, hầu hết người lao động làm việc tại các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình KTCS đều không có bảo hiểm thất nghiệp, có các chương trình hưu trí và không được tham gia các khóa học đào tạo nâng cao kỹ năng như các công ty kinh doanh truyền thống.

Bà Hương đưa ra một số gợi ý chính sách gồm: (1) Cần tư duy lập pháp “mở’ và “linh động” để các “nhà làm chính sách”, các nhà lập pháp “đồng hành” cùng các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (2) Đối với dịch vụ cho vay ngang hàng P2P lending: cần sớm ban hành khung khổ pháp lý để thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc đăng ký kinh doanh cũng như hoạt động dưới sự quản lý của cơ quan nhà nước (3) Nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện và hỗ trợ cho các doanh nghiệp truyền thống chuyển đổi hình thức kinh doanh; (4) Tăng cường bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (5) Bảo vệ quyền lợi người lao động trong nền KTCS (6) Bảo vệ dữ liệu cá nhân (7) Tăng cường quản lý thuế với các nhà cung cấp nền tảng trung gian.

Đại diện Viện Khoa học Pháp lý cũng nhấn mạnh về ảnh hưởng của mô hình KTCS đến việc bảo vệ quyền lợi cá nhân. Cụ thể, Các nền KTCS thu thập nhiều thông tin của người dung, có thể bao gồm vị trí của họ theo thời gian và các thông tin cá nhân khác, dẫn đến nguy cơ dữ liệu sử dụng được thu thập có thể được sử dụng sai mục đích.

Bà Dương Thu Hương khẳng định, KTCS vẫn là một xu hướng mới, cần tiếp tục nghiên cứu, theo dõi sự phát triển của mô hình này. Tư duy lập pháp mở và linh động để người chính sách, các nhà lập pháp đồng hành cùng các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.

Trong bối cảnh khung pháp lý thường đi sau thực tế, việc cho áp dụng thử nghiệm chính sách mới là cách ứng xử của cơ quan nhà nước nên làm đối với những công nghệ mới.

Vấn đề cấp thiết đặt ra là cần sớm ban hành khung khổ pháp lý để thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc đăng ký kinh doanh cũng như hoạt động dưới sự quản lý của cơ quan nhà nước nhằm giảm thiểu rủi ro cho các bên tham gia.

Nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện và hỗ trợ cho các doanh nghiệp truyền thống chuyển đổi hình thức kinh doanh; giải quyết các vấn đề nảy sinh về lao động, việc làm, an sinh xã hội của khu vực kinh doanh truyền thống khi bị thu hẹp thị phần trong cạnh tranh với các loại hình KTCS, giảm thiểu các xung đột xã hội có thể nảy sinh.

Trong bảo vệ dữ liệu cá nhân, cần thống nhất nội hàm dữ liệu cá nhân thay vì sử dụng nhiều thuật ngữ thông tin cá nhân, bí mật cá nhân, bí mật gia đình… như hiện nay. Mở rộng phạm vi các vấn đề được bảo vệ bởi các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân, đặc biệt các thông tin nhạy cảm.

Để đáp ứng được nhu cầu cấp thiết trong quản lý nhà nước đối với mô hình KTCS, quan trọng nhất là phải xác định rõ quyền, trách nhiệm của từng bên trong mối quan hệ ba bên (bên cung cấp nền tảng số, người cung cấp dịch vụ và khách hàng) của mô hình KTCS nhằm xác định rõ vai trò của từng bên trong từng mối quan hệ

Lâm Nghi

Bài liên quan
Tin bài khác
TS. Vũ Văn Ngọc: Doanh nghiệp Nhà nước phải cải tổ quản trị theo Temasek để tăng hiệu quả vốn

TS. Vũ Văn Ngọc: Doanh nghiệp Nhà nước phải cải tổ quản trị theo Temasek để tăng hiệu quả vốn

Theo TS. Vũ Văn Ngọc doanh nghiệp Nhà nước cần tập trung quyền chủ sở hữu, thuê CEO quốc tế và áp dụng chuẩn OECD để giải quyết xung đột đại diện.
Phát triển nông nghiệp đô thị: Mô hình quốc tế nào cho thực tiễn Việt Nam?

Phát triển nông nghiệp đô thị: Mô hình quốc tế nào cho thực tiễn Việt Nam?

Nông nghiệp đô thị đang được tiếp cận như một cấu phần của quy hoạch đô thị hiện đại. Ở nhiều quốc gia, mô hình này đã trở thành trụ cột trong chiến lược phát triển.
PGS. TS Phạm Trung Lương: “Với Da Nang Downtown, tôi kỳ vọng là du khách sẽ thức đến kiệt sức thì thôi”

PGS. TS Phạm Trung Lương: “Với Da Nang Downtown, tôi kỳ vọng là du khách sẽ thức đến kiệt sức thì thôi”

Đà Nẵng sau hợp nhất đang đứng trước vận hội vươn mình mạnh mẽ, đặc biệt là với sự tiếp sức từ những công trình trọng điểm đang được triển khai. Đặc biệt, siêu dự án Da Nang Downtown trị giá 80 ngàn tỷ đồng đang được kỳ vọng là "cú hích quan trọng" để đưa Đà Nẵng trở thành trung tâm du lịch hàng đầu châu Á.
Nguyên Thứ trưởng Đặng Huy Đông: Cơ chế đột phá cho doanh nghiệp nhà nước dẫn dắt chuyển đổi kép quốc gia

Nguyên Thứ trưởng Đặng Huy Đông: Cơ chế đột phá cho doanh nghiệp nhà nước dẫn dắt chuyển đổi kép quốc gia

Nguyên Thứ trưởng Đặng Huy Đông chỉ rõ, DNNN cần cơ chế thị trường, loại bỏ rủi ro công vụ để tiên phong dẫn dắt kinh tế trong đột phá công nghệ, chuyển đổi xanh và số.
TS. Lê Quang Thuận: Quản trị doanh nghiệp Nhà nước theo OECD để khơi thông 12 triệu tỷ vốn

TS. Lê Quang Thuận: Quản trị doanh nghiệp Nhà nước theo OECD để khơi thông 12 triệu tỷ vốn

Theo TS. Lê Quang Thuận,thách thức quản trị doanh nghiệp Nhà nước, khuyến nghị áp dụng các nguyên tắc OECD để nâng cao hiệu quả và tính minh bạch cho khu vực kinh tế chủ đạo.
TS. Nguyễn Trí Hiếu: Minh bạch thị trường vàng để khơi thông nguồn lực trong dân

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Minh bạch thị trường vàng để khơi thông nguồn lực trong dân

TS. Nguyễn Trí Hiếu cho rằng Nghị định 232 mở đường cho cơ chế quản lý vàng minh bạch, giảm độc quyền và tạo niềm tin thị trường, từ đó từng bước giải phóng hàng trăm tấn vàng đang nằm im trong dân.
PGS. TS Ngô Trí Long: Sàn vàng là công cụ để quản lý thị trường

PGS. TS Ngô Trí Long: Sàn vàng là công cụ để quản lý thị trường

Chuyên gia Ngô Trí Long khẳng định sàn giao dịch vàng là cần thiết, giúp Nhà nước giám sát thời gian thực, minh bạch hóa dữ liệu, và điều tiết thị trường hiệu quả hơn.
TS. Cấn Văn Lực: Cần nhìn nhận lại mức độ “vàng hoá” nền kinh tế

TS. Cấn Văn Lực: Cần nhìn nhận lại mức độ “vàng hoá” nền kinh tế

TS. Cấn Văn Lực kiến nghị tách bạch vàng miếng khỏi vàng trang sức, minh bạch hóa dữ liệu, đồng thời cân nhắc mô hình giao dịch vàng qua Sở Giao dịch Hàng hóa để triệt tiêu đầu cơ.
PGS. TS Phạm Thế Anh: Cần nhanh chóng giải quyết bài toán giá nhà vượt xa thu nhập

PGS. TS Phạm Thế Anh: Cần nhanh chóng giải quyết bài toán giá nhà vượt xa thu nhập

PGS. TS Phạm Thế Anh kiến nghị cần nhanh chóng giải quyết bài toán giá nhà vượt xa thu nhập (khả năng chi trả) và áp dụng chính sách thuế để kiểm soát tình trạng đầu cơ tích trữ bất động sản.
GS.TS Bùi Tiến Thành: Phát triển hạ tầng thông minh quyết định tương lai đô thị Việt Nam

GS.TS Bùi Tiến Thành: Phát triển hạ tầng thông minh quyết định tương lai đô thị Việt Nam

GS.TS Bùi Tiến Thành nhấn mạnh Việt Nam chỉ có thể tạo bứt phá đô thị nếu nắm bắt quy luật phát triển hạ tầng hiện đại, khai thác mô hình giao thông thông minh và mở rộng không gian theo cấu trúc vệ tinh hiệu quả.
ThS Nguyễn Anh Dương: Tăng trưởng bền vững tạo nền tảng ổn định cho thị trường bất động sản

ThS Nguyễn Anh Dương: Tăng trưởng bền vững tạo nền tảng ổn định cho thị trường bất động sản

ThS Nguyễn Anh Dương nhấn mạnh Việt Nam đang đối diện nhiều bài toán kép về tăng trưởng, ổn định vĩ mô và phát triển bền vững, đòi hỏi thị trường bất động sản phải thích ứng linh hoạt và cải cách mạnh mẽ hơn.
GS.TS Nguyễn Thành Hiếu: Bất động sản hậu COVID tạo sức ép lớn lên tăng trưởng

GS.TS Nguyễn Thành Hiếu: Bất động sản hậu COVID tạo sức ép lớn lên tăng trưởng

GS.TS Nguyễn Thành Hiếu nhận định thị trường bất động sản hậu COVID đang bộc lộ nhiều điểm nghẽn nghiêm trọng, buộc nền kinh tế đối diện thách thức lớn nếu không kịp thời tháo gỡ những rủi ro tích tụ suốt nhiều năm.
PGS.TS. Ngô Thị Phương Thảo: Điều tiết thị trường bất động sản cần tìm "ngưỡng" an toàn vĩ mô

PGS.TS. Ngô Thị Phương Thảo: Điều tiết thị trường bất động sản cần tìm "ngưỡng" an toàn vĩ mô

Theo PGS. TS Ngô Thị Phương Thảo, thị trường bất động sản đang chuyển từ "tiền tệ hóa" sang "tài chính hóa" với tính chu kỳ rõ rệt, đặt ra thách thức lớn về an toàn hệ thống tài chính và khả năng tiếp cận nhà ở.
Hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới: Chủ động, chọn lọc và bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia

Hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới: Chủ động, chọn lọc và bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia

Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới được đánh giá là kim chỉ nam chiến lược, thể hiện tầm nhìn dài hạn của Việt Nam trong tiến trình hội nhập sâu rộng. Theo TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Vietnam, đây không chỉ là sự nối dài của đường lối mở cửa suốt ba thập niên qua, mà còn là bước chuyển mang tính bản lề: từ hội nhập để thích nghi sang hội nhập để định hình cuộc chơi.
TS. Cấn Văn Lực: 10.000 tỷ – tấm vé vào cuộc chơi tài sản số

TS. Cấn Văn Lực: 10.000 tỷ – tấm vé vào cuộc chơi tài sản số

TS. Cấn Văn Lực cho biết, Việt Nam có 21 triệu nhà đầu tư tài sản mã hóa với doanh số 200 tỷ USD, cần cơ chế vốn 10.000 tỷ và ủy thác đầu tư để giữ dòng vốn ở lại.