| |
Ông Trần Tuấn Tú - Trưởng phòng Bảo hiểm thất nghiệp, Cục Việc làm (áo trắng) |
Trục lợi không còn là hiện tượng đơn lẻ
Chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là một trụ cột quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam, đóng vai trò “điểm tựa” cho người lao động khi không may mất việc làm. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực, thực tế cho thấy tình trạng trục lợi chính sách BHTN vẫn diễn ra khá phổ biến, gây thất thoát ngân sách, làm suy giảm niềm tin xã hội và xói mòn giá trị nhân văn vốn có của chính sách.
Làm thế nào để hạn chế tình trạng này? Cần những giải pháp gì để chấn chỉnh, khắc phục từ gốc, đồng thời nâng cao hiệu quả thực thi, theo ông Trần Tuấn Tú - Trưởng phòng Bảo hiểm thất nghiệp (Cục Việc làm, Bộ Nội vụ), những năm qua, cơ quan quản lý đã phát hiện hàng nghìn trường hợp người lao động và doanh nghiệp hưởng sai hoặc trục lợi chính sách BHTN. Những trường hợp này được phát hiện thông qua các hoạt động thanh tra, kiểm toán, rà soát hồ sơ của các cơ quan chức năng.
Sai phạm phổ biến nhất đến từ người lao động không đủ điều kiện nhưng vẫn nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp (TCTN). Một số khác đã có việc làm mới nhưng cố tình không khai báo để tiếp tục nhận tiền trợ cấp sai quy định. Luật đã quy định rõ 13 trường hợp không được hưởng TCTN và 6 trường hợp phải dừng hưởng, nhưng không ít người vẫn cố tình vi phạm.
Đáng lo ngại hơn, tình trạng trục lợi có tổ chức ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Không ít trường hợp doanh nghiệp “bắt tay” với người lao động để khai khống hồ sơ, giả tạo tình trạng thất nghiệp. Có doanh nghiệp dù biết người lao động đã có việc làm nhưng vẫn không báo giảm lao động để tiếp tục chiếm dụng chính sách.
Thậm chí, tình trạng gian lận còn xảy ra ở chính sách hỗ trợ học nghề. Theo quy định, người lao động đang hưởng BHTN có thể được hỗ trợ học nghề tại các cơ sở đào tạo. Tuy nhiên, đã có những cơ sở đào tạo lập hồ sơ khống, người lao động không tham gia học nhưng vẫn ký nhận danh sách, nhằm hợp thức hóa hồ sơ thanh toán với cơ quan chức năng. Hậu quả là Nhà nước phải thu hồi tiền, còn người vi phạm có thể bị xử lý hành chính hoặc hình sự tùy theo mức độ.
![]() |
Hạn chế từ công cụ giám sát và phối hợp dữ liệu
Theo ông Tú, nguyên nhân khiến tình trạng trục lợi kéo dài là do các hành vi vi phạm ngày càng tinh vi, đa dạng, lại khó phát hiện kịp thời. Việc kiểm tra thường chỉ được thực hiện khi xét lại hồ sơ, nên công tác xử lý, thu hồi trợ cấp gặp rất nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp cố tình lách luật để trốn đóng hoặc chậm đóng BHTN. Một số công ty chỉ ký hợp đồng tập sự hoặc thử việc để tránh nghĩa vụ đóng BHTN, đến khi ký hợp đồng chính thức mới truy đóng. Cách làm này là trái quy định, nhưng vẫn phổ biến do việc giám sát chưa chặt chẽ.
Hệ thống công nghệ quản lý và chia sẻ dữ liệu giữa các đơn vị chưa được kết nối hiệu quả, khiến việc phát hiện vi phạm phụ thuộc nhiều vào thủ công, kiểm tra ngẫu nhiên hoặc phản ánh từ cơ sở. Điều này dẫn đến độ trễ trong phát hiện và xử lý vi phạm, làm suy giảm hiệu quả thực thi chính sách.
5 giải pháp để bảo vệ tính nhân văn của chính sách
![]() |
Trước thực trạng trên, ông Trần Tuấn Tú cho rằng cần một hệ thống giải pháp đồng bộ và lâu dài để chấn chỉnh, phòng ngừa và xử lý nghiêm tình trạng trục lợi chính sách. 5 nhóm giải pháp được đề xuất:
Thứ nhất, hoàn thiện hành lang pháp lý, hướng dẫn minh bạch
Cơ quan quản lý cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn cụ thể quyền – nghĩa vụ của các bên liên quan, đồng thời quy định rõ chế tài xử lý vi phạm. Hành lang pháp lý cần chặt chẽ nhưng cũng đảm bảo tính khả thi trong thực tiễn.
Thứ ha, tuyên truyền sâu rộng, nâng cao ý thức người lao động
Một trong những gốc rễ của vi phạm là thiếu hiểu biết hoặc cố tình làm sai do thiếu ý thức tuân thủ. Do đó, cần đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BHTN, đặc biệt là các hành vi bị nghiêm cấm, các điều kiện hưởng và nghĩa vụ khai báo trung thực.
Thứ ba, ứng dụng công nghệ thông tin để tăng minh bạch
Việc chuyển đổi số trong quản lý BHTN là yêu cầu cấp thiết. Theo ông Tú, cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu liên thông giữa các ngành như Bảo hiểm xã hội, Nội vụ, Thuế, Doanh nghiệp… từ đó giúp phát hiện kịp thời các trường hợp vi phạm.
Ngoài ra, việc số hóa thủ tục hành chính cũng góp phần rút ngắn thời gian xử lý, giảm nguy cơ gian lận, đồng thời tăng tính minh bạch và công khai trong thực hiện chính sách.
Thứ tư, tăng cường phối hợp liên ngành
Không một cơ quan nào có thể giải quyết triệt để tình trạng trục lợi nếu thiếu sự phối hợp đồng bộ. Cần xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin, phối hợp thanh tra, hậu kiểm giữa các cơ quan quản lý Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể… để tạo thành mạng lưới giám sát đa chiều, kịp thời phát hiện sai phạm.
![]() |
Thứ năm, siết chặt thanh tra, xử lý nghiêm minh
Cuối cùng, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra định kỳ và đột xuất, đặc biệt ở những địa bàn, ngành nghề có nguy cơ cao. Những trường hợp vi phạm cần được xử lý nghiêm minh, công khai, minh bạch để răn đe và củng cố lòng tin của người dân vào chính sách.