Đề nghị bổ sung quy định hướng dẫn các trường hợp đang được quản lý giá khi giảm thuế VAT
Trong công văn vừa gửi Bộ Tài chính để góp ý Dự thảo Nghị định quy định chính sách giảm thuế giá trị gia tăng 2% theo Nghị quyết chung của Kỳ họp thứ năm, Quốc hội XV, VCCI đặt ra một loạt trường hợp cần phải hướng dẫn thêm để đảm bảo quá trình thực thi thuận lợi.
“Hiện nay, một số loại hàng hoá, dịch vụ đang được áp dụng các biện pháp quản lý giá, như Nhà nước định giá, đăng ký giá, kê khai giá và niêm yết giá. Chính sách giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống 8% vào ngày 01/07/2023 và tăng từ 8% lên 10% vào ngày 01/01/2024 sẽ tác động đến việc thực hiện các biện pháp quản lý giá như trên”, VCCI nêu rõ những khó khăn sẽ phát sinh trong thực hiện chính sách trên.
Cụ thể, các doanh nghiệp đã kê khai giá, đăng ký giá (đã bao gồm thuế) đặt câu hỏi, sau thời điểm 1/7/2023, doanh nghiệp có cần phải giảm giá tương ứng với phần giảm thuế 2% không hay vẫn áp dụng giá cũ. Doanh nghiệp có cần làm thủ tục kê khai, đăng ký giá đã điều chỉnh không và thực hiện theo quy trình, thủ tục nào…
Trong quá trình thực hiện chính sách này vào năm ngoái, các doanh nghiệp cũng đã phát hiện một số vướng mắc khó thực hiện trong thực tế, cần có hướng dẫn.
Ví dụ, một số loại hàng hoá, dịch vụ có thể giảm giá 2% khá dễ dàng, nhưng một số loại hàng hoá, dịch vụ có giá đã được làm tròn để dễ thanh toán thì việc điều chỉnh giá biên độ nhỏ (2%) sẽ không khả thi. Ví dụ, doanh nghiệp bưu chính chuyển phát đã kê khai giá 5.000 đồng/km, nếu phải giảm xuống còn 4.909 đồng/km sẽ rất khức tạp.
Với các lý do đó, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định hướng dẫn các trường hợp đang được quản lý giá khi giảm thuế VAT, theo hướng doanh nghiệp không cần làm thủ tục điều chỉnh giá và được phép áp dụng giá đã đăng ký, kê khai.
Phân loại hàng hoá, dịch vụ nào được hưởng thuế suất 8% hay 10% quá phức tạp
Liên quan đến danh mục hàng hoá dịch vụ không thuộc đối tượng được giảm thuế giá trị gia tăng, VCCI cũng đưa ra một số vướng mắc cần làm rõ, dựa trên thực tiễn thực hiện giảm thuế VAT theo Nghị quyết 43/2022/QH15.
Cơ quan soạn thảo Nghị định cũng nhận thấy thực trạng này, như cách xác định hàng hoá, dịch vụ giảm thuế giá trị gia tăng; mô tả hàng hoá tại Phụ lục kèm Nghị định 15/2022/NĐ-CP dựa trên Danh mục Hệ thống ngành sản phẩm Việt Nam hiện nay không tương ứng với mô tả hàng hoá tại Danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam dẫn đến khó khăn khi xác định mã HS đối với hàng hoá nhập khẩu tại các Phụ lục, đặc biệt là các dòng hàng có mô tả “hàng hoá… chưa được phân vào đâu”.
Trên thực tế, các doanh nghiệp cũng phản ánh với VCCI rằng, việc phân loại hàng hoá, dịch vụ nào được hưởng thuế suất 8% hay 10% theo Nghị định 15/2022/NĐ-CP rất phức tạp và quá nhiều rủi ro.
“Các doanh nghiệp không biết mình thực hiện đúng hay sai. Nhiều trường hợp hai doanh nghiệp mua bán hàng hoá với nhau nhưng không thống nhất được áp dụng thuế suất 8% hay 10% khiến hợp đồng không thể thực hiện được. Bản thân cơ quan thuế, cơ quan hải quan cũng lúng túng trong việc phân loại hàng hoá, dịch vụ để áp dụng”, VCCI báo cáo tình hình. Theo đại diện của cộng đồng doanh nghiệp, điều này thậm chí còn gây nguy cơ nhũng nhiễu, tiêu cực khi doanh nghiệp bị thanh kiểm tra do cơ quan nhà nước có thể diễn giải quy định theo nhiều cách khách nhau.
Trong Dự thảo đã có phương án là bổ sung quy định “Mã HS trong Phụ lục I và Phụ lục III chỉ để tra cứu. Việc xác định mã số HS của hàng hoá nhập khẩu thực hiện theo quy định pháp luật hải quan”. Tuy nhiên, theo VCCI, Phụ lục I và Phụ lục III vẫn có các trường hợp không có mã HS mà được ký hiệu (*), và sẽ khai báo mã HS theo thực tế hàng hoá nhập khẩu.
Đây là điểm khiến các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá gặp nhiều khó khăn vì không cơ sở để biết hàng hoá của mình (đã có mã HS khi nhập khẩu) có thuộc Phụ lục hay không. VCCI cho biết, nhiều doanh nghiệp kiến nghị nên sử dụng bảng phân loại hàng hoá nhập khẩu theo pháp luật hải quan làm cơ sở để xây dựng Phụ lục I và Phụ lục III của Nghị định này, thay cho việc sử dụng Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam. Giải pháp này có thể giúp hàng hoá nhập khẩu dễ dàng xác định được thuế suất, thay vì tình trạng hiện nay là cả hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá trong nước đều gặp khó khăn khi xác định thuế suất.
“Trong trường hợp không kịp sử dụng bảng phân loại hàng hoá nhập khẩu thì cần liệt kê đầy đủ các mã HS hàng nhập khẩu áp dụng thuế 10%. Nói cách khác, cần loại bỏ toàn bộ các trường hợp ngoại lệ được ký hiệu (*)”, Công văn của VCCI gửi Bộ Tài chính.
Theo Nghị quyết chung của Kỳ họp thứ năm, Quốc hội XV, thời gian giảm thuế giá trị gia tăng 2% sẽ kéo dài đến hết năm 2023, không dành cho một số nhóm hàng hóa như viễn thông, công nghệ thông tin, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, kim loại, sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, sản phẩm khai khoáng (không kể khai thác than), than cốc, dầu mỏ tinh chế, sản phẩm hoá chất, sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp này được kỳ vọng sẽ đảm bảo đúng mục tiêu kích cầu tiêu dùng, qua đó thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh sớm phục hồi…
Nghệ Nhân (Tổng hợp)