Theo Báo cáo Khảo sát về hoạt động công bố thông tin (CBTT) trên thị trường chứng khoán năm 2023 của Vietstock, tỷ lệ doanh nghiệp niêm yết (DNNY) đạt chuẩn CBTT có xu hướng tăng dần theo thời gian trong 13 năm qua (2011 - 2023). Ba năm gần nhất (2021 - 2023), tỷ lệ này vẫn duy trì ở mức cao so với trước nhưng đã có xu hướng chững lại. Đây cũng là giai đoạn hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và hoạt động CBTT nói riêng có những ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19 cũng như thị trường chứng khoán trải qua nhiều biến cố lớn. Danh sách DNNY đạt chuẩn CBTT trên thị trường chứng khoán năm 2023 gồm có 364 đơn vị, tương ứng với tỷ lệ khoảng 50%, giảm nhẹ so với tỷ lệ 52% của kỳ khảo sát liền trước.
Ngoài ra, việc không có bất cứ doanh nghiệp nào duy trì sự xuất hiện liên tục trong danh sách DNNY đạt chuẩn CBTT trong 13 năm thể hiện một thực tế là việc tuân thủ các quy định về CBTT của cơ quan chức năng là không hề dễ dàng. Điều này thực sự là một thử thách ngay cả đối với những doanh nghiệp lớn và đầu ngành.
Các chuyên gia Viện Nghiên cứu khoa học Ngân hàng, Học viện Ngân hàng đã đưa ra giải pháp nâng cao tính minh bạch thông tin của các doanh nghiệp niêm yết trong nước.
Thứ nhất, cần tăng cường việc giám sát tuân thủ và nâng cao năng lực đánh giá. Theo đó, thực tế tại nhiều thị trường chứng khoán đang phát triển cho thấy, việc phụ thuộc vào mức độ tự nguyện trong cung cấp thông tin của các DNNY thường đem lại hiệu quả không cao do các doanh nghiệp hiện nay chưa hiểu đúng về các lợi ích của minh bạch thông tin. Kể cả khi các cơ quan quản lý có đưa ra hệ thống các quy định, văn bản luật đầy đủ về nghĩa vụ công bố, thì việc tuân thủ của các công ty vẫn rất hạn chế. Một số công ty công khai thông tin mang tính hình thức, thông tin không đầy đủ, thậm chí đôi khi còn thiếu chính xác nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, để nâng cao minh bạch thông tin thị trường, thì vai trò của việc thanh tra giám sát thị trường là rất quan trọng. Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn huy động trên thị trường chứng khoán; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp tăng vốn ảo và sử dụng vốn sai mục đích; thực hiện phân bảng cổ phiếu niêm yết, nâng cao điều kiện niêm yết và điều kiện duy trì niêm yết đối với cổ phiếu trong từng bảng; bổ sung các tiêu chí về quản trị công ty, tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng, và tỷ lệ lợi nhuận trên quy mô vốn. Đồng thời, nâng cao khả năng phát hiện vi phạm và xử lý nghiêm theo chế tài xử phạt đối với các công ty không công bố thông tin theo quy định. Nghị định số 156/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 và Nghị định số 128/2021/NĐ-CP ngày 30/12/2021 đã liệt kê cụ thể các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán, đồng thời ban hành chi tiết các mức xử phạt đối với hành vi về thiếu minh bạch trong công bố thông tin.
Việc bổ sung các quy định này là phù hợp với thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán tại Việt Nam khi các hành vi thao túng giá chứng khoán đang diễn ra ngày càng nhiều và tinh vi hơn. Dù chế tài xử phạt đã có, nhưng để phát hiện gian lận thông tin và thực thi theo quy định của pháp luật thì cần đảm bảo việc ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết, cụ thể, đảm bảo quy trình xử phạt nhanh chóng, đơn giản để tạo tác dụng răng đe, đồng thời cũng cần nâng cao khả năng đánh giá thông tin của các cơ quan chức năng. Hiện nay tại Việt Nam, một số cơ quan, tổ chức đã thực hiện các báo cáo đánh giá về minh bạch thông tin của các công ty đại chúng, như vietstock, hay Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội. Tuy nhiên, các báo cáo này hiện chỉ dừng lại ở một số công ty đại chúng có quy mô lớn, hoặc mới được công bố theo số liệu tổng hợp, chứ chưa có số liệu từng doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chất lượng của các báo cáo cũng cần được đánh giá kỹ nếu muốn sử dụng trong công tác quản lý và giám sát thị trường. Để sử dụng hiệu quả hơn các báo cáo này, tận dụng nguồn lực chuyên gia từ các doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu, cần xem xét ban hành các gói thầu về đo lường minh bạch thông tin doanh nghiệp, trong đó yêu cầu cụ thể đối với năng lực nhà thầu, phương pháp thực hiện, cũng như tham khảo sự tư vấn của các tổ chức xếp hạng uy tín trên thế giới. Khi đã đảm bảo được chất lượng của việc đánh giá minh bạch doanh nghiệp, thì căn cứ vào kết quả của các báo cáo, ban hành danh sách các công ty theo các nhóm chất lượng thông tin khác nhau, và đưa vào diện giám sát đặc biệt với các công ty trong danh sách cảnh báo.
Thứ hai, cân nhắc việc áp dụng thẻ điểm quản trị doanh nghiệp ASEAN và tăng cường liên kết trao đổi thông tin quốc tế. Để tăng cường tính minh bạch của các công ty đại chúng, cần triển khai áp dụng Thẻ điểm quản trị doanh nghiệp ASEAN. Thẻ điểm quản trị doanh nghiệp ASEAN (the ASEAN Corporate Scorecard) được ban hành năm 2011 dựa trên các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp của Tổ chức phát triển và hợp tác kinh tế (OECD). Việc áp dụng Thẻ điểm quản trị doanh nghiệp ASEAN sẽ giúp cung cấp nguồn thông tin hữu ích cho quyết định đầu tư của các nhà đầu tư quốc tế, tạo động lực cho các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường chất lượng quản trị theo tiêu chuẩn của khu vực, từ đó nâng cao chất lượng hàng hoá trên thị trường chứng khoán nội địa. Bên cạnh đó, xây dựng lộ trình kết nối và trao đổi thông tin giữa thị trường chứng khoán Việt Nam và các thị trường khu vực nhằm tăng cường chất lượng công khai thông tin theo các thông lệ quốc tế cũng như nâng cao mức độ minh bạch của thị trường cũng như các chủ thể tham gia thị trường. Việc kết nối và trao đổi thông tin không chỉ bao gồm các thông tin liên quan tới giao dịch trên thị trường thứ cấp, công khai thông qua việc kết nối cơ sở hạ tầng giao dịch và thanh toán giữa các thị trường vốn thứ cấp ở trên, mà còn bao gồm thông tin về các hàng hoá trên thị trường. Những thông tin quan trọng và cần thiết công bố tài chính về tổ chức phát hành, giao dịch của cổ đông lớn, xếp hạng tín nhiệm trái phiếu… cũng cần thiết phải công khai minh bạch và kết nối giữa các thị trường theo một hệ thống tiêu chuẩn công bố đồng nhất giữa các thị trường. Điều này không những thể hiện sự đối xử công bằng về mặt thông tin giữa nhà đầu tư nội địa và nhà đầu tư nước ngoài của các thị trường khu vực mà còn gia tăng khả năng tiếp cận của các nhà đầu tư tới các thị trường trong khu vực, tạo điều kiện thuận lợi cho việc luân chuyển tự do các dòng vốn giữa thị trường vốn Việt Nam với các thị trường vốn trong khu vực.
Thứ ba, cần đảm bảo đúng tiến độ áp dụng chuẩn mực IFRS. Tiến hành các biện pháp quyết liệt để hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi từ VAS sang IFRS, đặc biệt là tại các doanh nghiệp có quy mô vốn hóa vừa và nhỏ, thông qua việc tổ chức các khóa tập huấn đối với bộ phận tài chính – kế toán của công ty, ban hành sổ tay hướng dẫn công việc, thành lập các tổ tư vấn chuyển đổi IFRS dưới hình thức hỗ trợ trực tiếp và hỗ trợ gián tiếp, xây dựng tổng đài, kênh giải đáp thắc mắc của doanh nghiệp nhằm giúp doanh nghiệp được hỗ trợ kịp thời ngay khi có yêu cầu phát sinh, tránh tình trạng trậm trễ, bỏ sót, khó tiếp cận.
Thứ tư, cần tăng cường các chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin. Nhiều vi phạm của các doanh nghiệp về công bố thông tin, đặc biệt là thông tin tài chính vẫn chưa suy giảm và không cải thiện nhiều từ năm này sang năm khác. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, nhưng nguyên nhân quan trọng phải kể đến là hiện nay chưa có chế tài cụ thể các vi phạm về công bố thông tin tài chính. Chẳng hạn, nếu kết quả công bố của một công ty trước và sau kiểm toán có chênh lệch thì hiện nay các đối tượng này chỉ cần giải trình sự chênh lệch đó, hoàn toàn không có biện pháp chế tài hay xử phạt nặng nào đối với nội dung công bố trên. Theo đó, cần công bố thật rộng rãi, đẩy mạnh công tác tuyên truyền thông qua các phương tiện truyền thông để các công ty niêm yết hiểu rõ và nắm đầy đủ hơn các biện pháp chế tài để họ phải nghiêm túc tuân thủ quy định. Đồng thời đưa ra các quy định cụ thể về việc xử phạt bằng tiền hay bằng các hình thức khác các vi phạm liên quan đến vấn đề công bố thông tin tài chính.
Thứ năm, cần tích cực hoàn thiện cơ chế quản trị công ty tại các doanh nghiệp niêm yết. Nhiều ví dụ cho thấy cơ chế quản trị công ty chưa tốt dẫn đến thông tin công bố trước và sau kiểm toán còn sai lệch nhiều với mức sai lệch quá cao làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư vào các thông tin mà các doanh nghiệp niêm yết công bố. HĐQT phải tăng cường các hoạt động giám sát, báo cáo các rủi ro của công ty, và đặc biệt là bảo đảm có chính sách, quy trình để thiết lập môi trường kiểm soát hiệu quả, trong đó có việc thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ. Điều này nhằm đảm bảo quyền lợi của cổ đông, hạn chế hành vi lạm quyền hay lợi dụng kẽ hở để mưu lợi riêng tư của nhà quản lý. Các hành động cụ thể là: Sử dụng các công ty kiểm toán có uy tín và mang tính độc lập đúng nghĩa, tránh sử dụng quá nhiều các dịch vụ không liên quan đến kiểm toán của công ty kiểm toán độc lập, điều này cũng nhằm gia tăng tính độc lập của kiểm toán viên, đồng thời giúp nhà đầu tư tin cậy hơn kết quả và ý kiến của kiểm toán, khiến đánh giá của nhà đầu tư về tính minh bạch thông tin của các doanh nghiệp niêm yết được tăng thêm; thiết lập một bộ máy hoạt động hiệu quả để có thể tối thiểu những hành vi quản trị không mong muốn, như là bổ nhiệm thành viên bên ngoài vào ban điều hành hay tái thiết lập hệ thống tổ chức của các doanh nghiệp. Có những quy định và yêu cầu cụ thể về việc thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động hiệu quả. Tăng cường hoạt động của kiểm toán nội bộ và bộ phận này phải chịu sự giám sát và quản lý của HĐQT.
Linh Anh