Quyết định có hiệu lực kể từ ngày ký, nhằm bảo đảm tính thống nhất, liên tục trong cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho các bộ, ngành, địa phương tiếp tục triển khai lộ trình sắp xếp, cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước trong giai đoạn chuyển tiếp.
Theo đó, Quyết định số 22/2021/QĐ-TTg ngày 2/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ, được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 13/2025/QĐ-TTg ngày 14/5/2025, quy định tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước sẽ tiếp tục được áp dụng từ ngày 1/8/2025 đến khi có văn bản thay thế hoặc bãi bỏ, nhưng không quá ngày 31/12/2025.
Trong quá trình thực hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc, các bộ, ngành, địa phương và cơ quan đại diện chủ sở hữu phải báo cáo Bộ Tài chính để chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn, xử lý hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét, chỉ đạo. Bộ Tài chính đồng thời được giao theo dõi, giám sát quá trình triển khai, bảo đảm việc sắp xếp, thoái vốn đúng quy định, tránh thất thoát và lãng phí vốn, tài sản nhà nước.
![]() |
Áp dụng tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước đến hết năm 2025. |
Việc áp dụng tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước được thực hiện thống nhất theo Luật số 68/2025/QH15 và các văn bản pháp luật liên quan. Trường hợp có sự khác biệt giữa các quy định, văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn sẽ được ưu tiên áp dụng.
Theo nội dung Quyết định, tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước là căn cứ quan trọng để các cơ quan đại diện chủ sở hữu rà soát kế hoạch duy trì mô hình doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, hoặc thực hiện chuyển đổi sở hữu, sắp xếp lại, hợp nhất, sáp nhập, chia tách, giải thể, phá sản và thoái vốn trong giai đoạn 2021–2025.
Cụ thể, Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ tại 13 ngành, lĩnh vực trọng yếu, bao gồm: đo đạc bản đồ phục vụ quốc phòng, an ninh; sản xuất và kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp; truyền tải và điều độ hệ thống điện quốc gia; kinh doanh xổ số; in, đúc tiền; sản xuất vàng miếng, vật phẩm lưu niệm bằng vàng; tín dụng chính sách; bảo hiểm tiền gửi; mua bán và xử lý nợ xấu gắn với tái cơ cấu tổ chức tín dụng...
Đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ từ 65% vốn điều lệ trở lên, tiêu chí này áp dụng cho 7 ngành, lĩnh vực như: quản lý và khai thác cảng hàng không, sân bay; dịch vụ khai thác khu bay; khai thác khoáng sản quy mô lớn; một số lĩnh vực tài chính, ngân hàng (ngoại trừ bảo hiểm, chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính).
Nhóm doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ từ 50% đến dưới 65% vốn điều lệ áp dụng cho 7 ngành, lĩnh vực, gồm: khai thác, sản xuất, cung cấp nước sạch; thoát nước đô thị và nông thôn; sản xuất hóa chất cơ bản; vận chuyển hàng không; đầu mối nhập khẩu xăng dầu có thị phần từ 30% trở lên nhằm đảm bảo cân đối, bình ổn thị trường; sản xuất thuốc lá điếu...
Đối với các doanh nghiệp không thuộc các nhóm ngành, lĩnh vực nêu trên, việc xem xét chuyển đổi, sắp xếp hoặc thoái vốn sẽ căn cứ vào bốn tiêu chí: (i) sản xuất xi măng chiếm thị phần từ 30% trở lên và có khai thác mỏ nguyên liệu tại địa bàn trọng yếu về quốc phòng, an ninh; (ii) trồng, chế biến cao su hoặc cà phê tại địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa gắn với quốc phòng, an ninh; (iii) cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích có doanh thu từ hoạt động công ích chiếm ít nhất 50% tổng doanh thu trong ba năm liên tiếp trước thời điểm chuyển đổi; và (iv) doanh nghiệp có giá trị văn hóa, lịch sử, kiến trúc đặc biệt, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành, địa phương.
Riêng các công ty nông, lâm nghiệp; doanh nghiệp phục vụ trực tiếp quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh; Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC); Công ty Mua bán nợ Việt Nam; Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam và Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam sẽ được sắp xếp theo quy định riêng của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
Việc kéo dài thời gian áp dụng tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước đến hết năm 2025 được đánh giá là giải pháp cần thiết trong giai đoạn hoàn thiện khung pháp lý, giúp các cơ quan chủ quản có thêm thời gian xử lý các vướng mắc, đồng thời bảo đảm tiến độ sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước – khu vực vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Việt Nam.