Thứ năm 11/12/2025 22:17
Hotline: 024.355.63.010
Email: banbientap.dnhn@gmail.com
Thời cuộc

Việt Nam phải cải thiện cơ sở hạ tầng và có cơ chế bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp SME

12/10/2020 00:00
Làm thế nào Việt Nam có thể tận dụng tốt nhất cơ hội, đón nhận được dòng vốn đầu tư chất lượng cao?.. Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB tại Việt Nam Nguyễn Minh Cường đã đưa ra góc nhìn của mình.

Làm thế nào Việt Nam có thể tận dụng tốt nhất cơ hội, đón nhận được dòng vốn đầu tư chất lượng cao? Làm thế nào để giải quyết được khó khăn căn bản về tiếp cận vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa, để doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam phát triển lớn mạnh, tận dụng cơ hội đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước trong vận hội mới? Ông Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB tại Việt Nam đã đưa ra góc nhìn của mình trong cuộc trao đổi với Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập:

Ông Nguyễn Minh Cường – Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng phát triển châu Á – ADB tại Việt Nam

Cần tránh trở thành bến đỗ “tạm thời”

ADB nhận định kinh tế Việt Nam sẽ phát triển ra sao về trung và dài hạn sau đại dịch COVID-19 và sau khi các Hiệp định EVFTA và EVIPA chính thức có hiệu lực, thưa ông?

Ông Nguyễn Minh Cường: Nhiều năm trở lại đây, Việt Nam trở thành một nền kinh tế mở phụ thuộc nhiều vào yếu tố bên ngoài. Trong khi đó, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới, những đối tác xuất nhập khẩu của Việt Nam đã và đang bị ảnh hưởng trầm trọng, rơi vào suy thoái. Chính vì vậy, kinh tế Việt Nam sẽ không tránh khỏi những tác động mang tính tiêu cực. ADB cũng đã dự báo năm 2020, kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng 4,1%. Nếu đạt được thì đây cũng là mức tăng trưởng rất cao so với khu vực và thế giới.

Về trung hạn và dài hạn, ngay từ trước khi đại dịch COVID-19 bùng phát, ADB đã dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển rất mạnh từ 6.8%-7%/năm, đến nay mức dự báo này vẫn được ADB giữ nguyên cho kịch bản Việt Nam và thế giới kiểm soát tốt dịch COVID-19. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam về trung và dài hạn sẽ dựa trên một số động lực chính. Thứ nhất là cùng với đà tăng trưởng của nền kinh tế, tầng lớp trung lưu tại Việt Nam tăng lên mạnh mẽ, chính điều này giúp đẩy mạnh tiêu dùng nội địa, đây là một trong những điểm sáng của kinh tế Việt Nam và sẽ tiếp tục là động lực đóng góp vào tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới. Thứ hai, là sự tham gia đóng góp tích cực của kinh tế tư nhân vào tăng trưởng GDP, ngoài đóng góp của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.

Logistics vẫn chiếm tỷ trọng quá cao trong tổng chi phí doanh nghiệp

Động lực thứ ba có lẽ là quan trọng nhất, đó chính là sự dịch chuyển đầu tư FDI, dưới tác động của chuyển đổi cơ cấu kinh tế toàn cầu – đặc biệt là dòng chảy thương mại và đầu tư – từ trước khi xảy ra chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và đại dịch, và các yếu tố địa chính trị trong khu vực và trên thế giới. Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và đại dịch đã thúc đẩy nhanh hơn và sâu sắc hơn tiến trình chuyển dịch cơ cấu này. Với kết quả đầy tích cực về phòng dịch COVID-19, với thị trường gần 100 triệu dân có mức thu nhập trung bình trên thế giới, với vị trí địa lý thuận lợi để tiếp cận thị trường đầy tiềm năng của Châu Á, với cơ hội tiếp cận các thị trường khác trên thế giới qua các hiệp định thương mại song phương, Việt Nam trở thành điểm sáng đáng để nhiều doanh nghiệp lớn trên thế giới phải cân nhắc lựa chọn đầu tư.

Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với nhiều nước khác để thu hút vốn đầu tư. Vậy theo ông, đâu sẽ là lợi thế cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam?

Ông Nguyễn Minh Cường: Việt Nam có một số lợi thế để cạnh tranh với những quốc gia khác khi thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, như lao động nhân công chi phí thấp, môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện, nhiều hiệp định song phương, đa phương được ký kết với Châu Âu, Mỹ và nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới, tạo tiền đề cực kỳ thuận lợi cho sản xuất xuất khẩu, sự cam kết và nỗ lực của Chính phủ về cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh... Tuy nhiên, theo tôi lợi thế cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam so với những quốc gia khác chính là sự ổn định chính trị, ổn định kinh tế vĩ mô, và một thị trường nội địa gần 100 triệu dân năng động và nhiều tiềm năng, đặc biệt là tính hiệu quả của hệ thống chính trị đã được thể hiện rất rõ trước và trong đại dịch COVID-19 vừa qua.

Hạ tầng yếu kém là “yếu điểm” của Việt Nam

Việt Nam mong muốn tập trung thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, thân thiện với môi trường. Theo ông, Việt Nam cần phải làm gì để thu hút được nhà đầu tư vào những dự án như vậy?

Ông Nguyễn Minh Cường: Những nhà đầu tư “chất lượng cao” trước khi đầu tư đều có nghiên cứu kỹ càng, cẩn thận. Họ đầu tư mang tính chất lâu dài, do vậy sẽ cân nhắc nhiều yếu tố chiến lược trước khi quyết định lựa chọn địa điểm đầu tư được đưa ra xem xét. Ngoài Việt Nam cũng còn nhiều quốc gia khác muốn thu hút đầu tư từ những doanh nghiệp này. Bởi vậy, để thu hút được những dự án đầu tư chất lượng cao, môi trường kinh doanh của Việt Nam vẫn cần phải được cải thiện rất nhiều, đây cũng chính là một trong những yếu tố được các nhà đầu tư lớn trên thế giới tập trung quan tâm. Ngoài ra, những yếu tố khác như cơ sở hạ tầng, năng suất lao động, trình độ nguồn nhân lực, tính minh bạch trong kinh doanh, chính sách pháp luật… cũng là những yếu tố góp phần đáng kể vào quyết định lựa chọn đầu tư của những nhà đầu tư “chất lượng cao”. Nếu như Việt Nam không có sự cải thiện đáng kể những yếu tố trên, vấn đề cạnh tranh và thu hút đầu tư từ những nhà đầu tư “chất lượng cao” chỉ là giấc mơ xa vời. Thay vào đó, chúng ta chỉ có thể thu hút được những nhà đầu tư nhỏ lẻ, những nhà đầu tư dịch chuyển “tạm thời”, mang tính chất “tránh bão” trong thời điểm chiến tranh thương mại và đại dịch COVID-19 bùng phát.

Thị trường 100 triệu dân đầy tiềm năng của Việt Nam rất hấp dẫn nhà đầu tư ngoại

Ngoài ra, Việt Nam cũng cần quan tâm hơn đến dòng đầu tư mua bán sáp nhập công ty (M&A), đặc biệt là ở châu Á. Do thanh khoản dồi dào vì đầu tư sản xuất bị hạn chế, giá các tài sản (assets) trong khu vực và trên thế giới hiện đang đi xuống. Đặc biệt, để chiếm lĩnh mạng lưới phân phối nội địa sẵn có của các công ty đang trên bờ vực phá sản cũng như tận dụng cơ hội tiếp cận thị trường dưới danh nghĩa sản xuất nội địa, nhiều nhà đầu tư lựa chọn việc hình thức M&A. Trong thời điểm chính tranh thương mại leo thang diễn biến phức tạp, các dòng đầu tư mua cổ phần doanh nghiệp tăng đột biến. Hiện tượng này vừa là cơ hội nhưng cũng là thách thức rất lớn của Việt Nam trong quản lý dòng vốn đầu tư nước ngoài.

ADB sẽ hỗ trợ Việt Nam thế nào trong việc thu hút nhà đầu tư “chất lượng cao”, thưa ông?

Ông Nguyễn Minh Cường: Như đã nói, một trong những yếu tố được ADB xác định là điểm còn hạn chế của Việt Nam là cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh gây tăng chi phí logistic, như hiện tại theo tính toán, logistic chiếm tới gần 20% tổng chi phí của doanh nghiệp. Chi phí như vậy là quá cao so với tại các nước khác, gây áp lực lên giá thành sản phẩm, khiến nhà đầu tư băn khoăn cân nhắc trước khi đầu tư. Các dự án của ADB tập trung chủ yếu vào phát triển cơ sở hạ tầng và biến đổi khí hậu, chiếm tới 70%-80% tổng vốn đầu tư. Nhiều dự án phát triển cơ sở hạ tầng được ADB triển khai tại Việt Nam như dự án Metro Hà Nội và TP. HCM, dự án cao tốc Nội Bài - Lào Cai… Trong số đó, dự án cao tốc Nội Bài - Lào Cai đã giúp chuyển đổi hẳn khu vực Tây Bắc Việt Nam, tạo đà tăng trưởng kinh tế khu vực. Lào Cai trước đây còn tụt hậu nhiều so với Lạng Sơn, Quảng Ninh nhưng từ khi có đường cao tốc, kinh tế Lào Cai đã có sự phát triển vượt trội, đầu tư nước ngoài vào Lào Cai tăng lên đáng kể. Ngoài ra, còn rất nhiều dự án đã và đang được ADB triển khai phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực cạnh tranh, hỗ trợ thu hút nhà đầu tư, đặc biệt là những nhà đầu tư chất lượng cao vào Việt Nam.

Việt Nam cần cải thiện rất nhiều nếu muốn thúc đẩy doanh nghiệp SMEs phát triển

Trong thời gian tới, ADB sẽ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) Việt Nam như thế nào trong việc tiếp cận nguồn tài chính – lĩnh vực được coi là khó khăn nhất đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam?

Ông Nguyễn Minh Cường: Theo phân tích của ADB, trước khi đại dịch COVID-19 xảy ra, hệ thống ngân hàng, cơ chế tín dụng của Việt Nam so với một số nước khác trong ASEAN được coi là có phần tốt hơn, tỉ lệ tiếp cận vốn của doanh nghiệp Việt Nam khả quan hơn. Tuy nhiên trong và sau khủng hoảng, cơ chế tiếp cận vốn của tổ chức tín dụng tại Việt Nam dành cho doanh nghiệp lại có phần hạn chế, khó khăn hơn so với nhiều nước khác. Trong khủng hoảng gây ra bởi đại dịch COVID-19, Chính phủ nhiều nước đưa ra cơ chế bảo lãnh tín dụng dành cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên tại Việt Nam, cơ chế bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp bị tác động của đại dịch chưa phát huy hết hiệu quả.

Chân thành cảm ơn ông về cuộc trao đổi ngày hôm nay!

Tại Việt Nam hiện nay, ngoài ngân hàng thương mại, doanh nghiệp SMEs còn có thể tiếp cận vốn từ nhiều nguồn khác như Quỹ tín dụng nhân dân, Bộ Kế hoạch và đầu tư cùng Hiệp hội cũng có một quỹ dành riêng hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên vấn đề vướng mắc ở đây là cơ chế cho vay của những tổ chức này không khác gì so với cơ chế của ngân hàng, không có cơ chế bảo lãnh tín dụng của Chính phủ như nhiều nước khác. Vì vậy theo tôi, đây là điểm nghẽn gây cản trở khả năng tiếp cận vốn đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam.

Trong thời gian tới, ADB sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng, tổ chức nghiên cứu khảo sát thực tế về khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa bị tác động bới COVID-19, sau đó sẽ có đề xuất cụ thể để tạo cơ chế bảo lãnh tín dụng linh hoạt hơn cho doanh nghiệp SMEs khi tiếp cận vốn.

Ngọc Thái (t/h)

Tin bài khác
Hà Nội phát triển công nghiệp hỗ trợ, hướng tới mạng lưới doanh nghiệp chuẩn quốc tế vào năm 2035

Hà Nội phát triển công nghiệp hỗ trợ, hướng tới mạng lưới doanh nghiệp chuẩn quốc tế vào năm 2035

Hà Nội vừa phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2026–2030, định hướng đến năm 2035, với mục tiêu hình thành mạng lưới doanh nghiệp quy mô lớn, đủ khả năng tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu và đáp ứng yêu cầu của nền công nghiệp hiện đại.
Hà Nội phục hồi mạnh mẽ sản xuất công nghiệp, tạo lực đẩy cho tăng trưởng

Hà Nội phục hồi mạnh mẽ sản xuất công nghiệp, tạo lực đẩy cho tăng trưởng

Sản xuất công nghiệp của Hà Nội tiếp tục khởi sắc trong 11 tháng năm 2025, với chỉ số IIP tăng 7% so với cùng kỳ. Đà phục hồi rõ nét của các ngành chế biến – chế tạo và những nỗ lực tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp giúp khu vực công nghiệp giữ vai trò trụ cột trong tăng trưởng kinh tế Thủ đô.
Việt Nam – Hoa Kỳ bước vào kỷ nguyên thương mại mới: Từ tăng trưởng nóng đến yêu cầu bứt phá bền vững

Việt Nam – Hoa Kỳ bước vào kỷ nguyên thương mại mới: Từ tăng trưởng nóng đến yêu cầu bứt phá bền vững

30 năm sau khi bình thường hóa quan hệ, Việt Nam và Hoa Kỳ đã trở thành đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của nhau. Tổng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ đạt kỷ lục 138,6 tỷ USD và chiếm hơn 32% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Quốc hội thông qua Luật Báo chí (sửa đổi): Làm rõ vị trí cơ quan báo chí chủ lực đa phương tiện và cơ chế tài chính đặc thù

Quốc hội thông qua Luật Báo chí (sửa đổi): Làm rõ vị trí cơ quan báo chí chủ lực đa phương tiện và cơ chế tài chính đặc thù

Với 437/440 đại biểu tán thành, Luật Báo chí (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua sáng 10/12. Luật gồm 4 chương, 51 điều, áp dụng từ ngày 1/7/2026, đáng chú ý là quy định về cơ quan báo chí chủ lực đa phương tiện và cơ chế tài chính đặc thù gắn với mức độ tự chủ.
Xuất khẩu, sản xuất bứt phá: Động lực giúp Việt Nam đạt mục tiêu tăng trưởng 2025

Xuất khẩu, sản xuất bứt phá: Động lực giúp Việt Nam đạt mục tiêu tăng trưởng 2025

Nền kinh tế Việt Nam duy trì đà tăng trưởng tích cực dù chịu “tác động kép”, với sản xuất, xuất khẩu và doanh nghiệp phục hồi mạnh trong 11 tháng năm 2025.
Tăng hỗ trợ ngân sách để phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã: Động lực hình thành chuỗi giá trị bền vững

Tăng hỗ trợ ngân sách để phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã: Động lực hình thành chuỗi giá trị bền vững

Văn phòng Chính phủ vừa ban hành Thông báo số 678/TB-VPCP, truyền đạt kết luận của Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng tại Diễn đàn Kinh tế hợp tác, hợp tác xã năm 2025.
Quốc hội yêu cầu hành động khẩn cấp để kiểm soát ô nhiễm không khí tại Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh

Quốc hội yêu cầu hành động khẩn cấp để kiểm soát ô nhiễm không khí tại Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh

Sáng 10/12, Quốc hội đã chính thức thông qua Nghị quyết về việc tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường. Một trong những điểm nhấn quan trọng của nghị quyết lần này là yêu cầu thực hiện ngay các biện pháp cấp bách nhằm kiểm soát, ngăn chặn và khắc phục tình trạng ô nhiễm không khí tại Hà Nội và TP.HCM.
Đề xuất đưa phân bón trở lại diện không chịu VAT để giảm gánh nặng cho nông dân

Đề xuất đưa phân bón trở lại diện không chịu VAT để giảm gánh nặng cho nông dân

Trong phiên thảo luận chiều 9/12 về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, nhiều đại biểu Quốc hội thống nhất kiến nghị đưa phân bón trở lại diện không chịu thuế VAT.
ThS. Nguyễn Quốc Anh: Bứt phá tăng trưởng hai con số, chấm dứt mô hình lao động giá rẻ cũ kỹ

ThS. Nguyễn Quốc Anh: Bứt phá tăng trưởng hai con số, chấm dứt mô hình lao động giá rẻ cũ kỹ

ThS Nguyễn Quốc Anh cho rằng, cần mô hình tăng trưởng mới dựa đổi mới sáng tạo, công nghệ và kinh tế xanh để đạt mục tiêu GDP hai con số giai đoạn 2026-2030, hướng tới quốc gia thu nhập cao năm 2045.
Khách quốc tế đến Việt Nam đạt kỷ lục, vì sao doanh nghiệp du lịch vẫn “khát” doanh thu?

Khách quốc tế đến Việt Nam đạt kỷ lục, vì sao doanh nghiệp du lịch vẫn “khát” doanh thu?

Dù lượng khách quốc tế đến Việt Nam đang đạt những cột mốc kỷ lục sau đại dịch, nhưng nhiều doanh nghiệp du lịch lại đang đối mặt với nghịch lý: doanh thu sụt giảm, lợi nhuận không tăng tương xứng. Vấn đề không nằm ở số lượng, mà là chất lượng chi tiêu và sự thay đổi hành vi du lịch của khách ngoại.
Hội chợ Việt – Trung 2025: Điểm hẹn giao thương lớn nhất năm tại Móng Cái

Hội chợ Việt – Trung 2025: Điểm hẹn giao thương lớn nhất năm tại Móng Cái

Hội chợ Thương mại và Du lịch Quốc tế Việt – Trung lần thứ 17 năm 2025 sẽ trở lại từ ngày 11 đến 15/12 tại Móng Cái (Việt Nam) và Đông Hưng (Trung Quốc), đánh dấu một trong những hoạt động xúc tiến thương mại cấp Quốc gia quan trọng nhất trong năm. Diễn ra luân phiên giữa hai địa phương biên giới, sự kiện tiếp tục khẳng định vai trò cầu nối chiến lược trong hợp tác kinh tế, thương mại, du lịch giữa Quảng Ninh và Quảng Tây.
Cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh: Việt Nam tiếp cận cách đánh giá mới theo chuẩn quốc tế

Cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh: Việt Nam tiếp cận cách đánh giá mới theo chuẩn quốc tế

Hội thảo “Giới thiệu chỉ số B-Ready và biện pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam”, do Bộ Tài chính phối hợp với Ngân hàng thế giới tổ chức ngày 9/12, tại Hà Nội nhằm tìm giải pháp cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam.
Đề xuất mở cơ chế khuyến khích phát triển điện hạt nhân mô-đun nhỏ tại Việt Nam

Đề xuất mở cơ chế khuyến khích phát triển điện hạt nhân mô-đun nhỏ tại Việt Nam

Trong bối cảnh yêu cầu bảo đảm an ninh năng lượng và giảm phát thải ngày càng cấp bách, nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng điện hạt nhân mô-đun nhỏ (SMR) là lựa chọn chiến lược phù hợp với điều kiện Việt Nam, nhưng cần đi kèm khung pháp lý chặt chẽ và lộ trình triển khai thận trọng.
Hơn 5.000 kiến nghị gửi tới Chính phủ trước giờ khai mạc Hội nghị đối thoại với nông dân 2025

Hơn 5.000 kiến nghị gửi tới Chính phủ trước giờ khai mạc Hội nghị đối thoại với nông dân 2025

Trước khi Hội nghị Thủ tướng đối thoại với nông dân năm 2025 diễn ra, hệ thống Hội Nông dân trên cả nước đã tổng hợp hơn 5.000 ý kiến, phản ánh rõ nhu cầu cấp thiết về đổi mới công nghệ, cải thiện hạ tầng và tháo gỡ vướng mắc trong sản xuất – tiêu thụ nông sản.
Trình Quốc hội bổ sung hơn 26,3 tỷ đồng chi thường xuyên từ vốn viện trợ năm 2025

Trình Quốc hội bổ sung hơn 26,3 tỷ đồng chi thường xuyên từ vốn viện trợ năm 2025

Chính phủ trình Quốc hội bổ sung hơn 26,3 tỷ đồng vào dự toán chi thường xuyên năm 2025 từ nguồn viện trợ không hoàn lại, nhằm kịp thời bố trí kinh phí cho các dự án và khoản viện trợ phát sinh sau đợt lập dự toán đầu tiên, bảo đảm thực hiện đúng cam kết với nhà tài trợ.