Thứ tư 17/12/2025 01:23
Hotline: 024.355.63.010
Email: banbientap.dnhn@gmail.com
Thời cuộc

Tiến sĩ Lưu Vĩnh Toàn: AI sẽ là “cạm bẫy” nếu doanh nghiệp nhỏ và vừa dùng sai hay ảo tưởng

12/10/2020 00:00
Trí tuệ nhân tạo (AI) là một công cụ hiệu quả với các công ty lớn trên thế giới như Google, Amazon, Facebook… Vậy các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam có thể tận dụng được thế mạnh của AI để hỗ trợ công việc sản xuất, kinh doanh của mình?

Chúng tôi đã trao đổi với TS. Lưu Vĩnh Toàn (công ty Move Digital AG, Thụy Sĩ) - một chuyên gia về data mining, xử lý ngôn ngữ tự nhiên, AI, về cách tiếp cận AI của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bối cảnh hiện nay.

TS. Lưu Vĩnh Toàn.

Anh có thể chia sẻ góc nhìn của anh về quá trình triển khai ứng dụng AI của doanh nghiệp nhỏ và vừa một cách bài bản?

Theo tôi, quá trình ứng dụng AI của một doanh nghiệp, dù ở quy mô lớn hay nhỏ cũng nên tuân theo quy luật phát triển của chính ngành AI gồm 3 giai đoạn trong lịch sử: rule based (dùng máy giải quyết các vấn đề của con người dựa theo các quy tắc định nghĩa trước), machine learning (dùng máy học ra các quy tắc dựa các phương pháp thống kê dữ liệu), deep learning (phương pháp học máy dựa trên lượng dữ liệu cực lớn).

Cho nên một doanh nghiệp cũng vậy, luôn phải bắt đầu bằng việc (1) số hóa dữ liệu,(2) phát hiện ra các quy tắc và quy trình có thể đồng bộ, xử lý tự động (3) có hệ thống analytics để phân tích, thống kê dữ liệu và đánh giá các ảnh hưởng của các giải pháp (4) dùng máy móc, thuật toán hay ứng dụng hệ thống mới tối ưu các quy trình đấy để giảm chi phí, tăng hiệu quả kinh doanh.

Khi những nguồn tài nguyên còn hạn chế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đừng lao ngay vào một giải pháp ứng dụng AI toàn diện mà nên ứng dụng AI ở từng công đoạn một, trước mắt hỗ trợ cho nhân viên để tăng hiệu quả công việc từng bước, ví dụ với bộ phận marketing, bán hàng có sự hỗ trợ của hệ thống gợi ý khách hàng tiềm năng, bộ phận chăm sóc khách hàng có hệ thống phân loại phản hồi của khách hàng và gợi ý câu trả lời… Cần cố gắng tận dụng các giải pháp AI có sẵn dưới dạng dịch vụ hay các hệ thống mã nguồn mở để tiết kiệm chi phí và kiểm tra tác dụng.

Lưu ý là rất nhiều các công ty công nghệ lớn đã sử dụng các giải pháp AI bên dưới các dịch vụ rồi nên trước mắt, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tìm hiểu để sử dụng một số dịch vụ của họ cho tối ưu thay vì tự xây dựng.

Chẳng hạn trong việc marketing, nền tảng như Facebook, Google đã có một lượng dữ liệu và giải thuật rất mạnh để hỗ trợ các chiến dịch quảng cáo hiệu quả cho khách hàng bằng cách dựa vào lượng dữ liệu ban đầu khách hàng cung cấp, tìm ra tập người dùng có thông tin tương ứng trên mạng xã hội để nhắm việc hiển thị quảng cáo cho đúng đối tượng hơn.

Hay trong việc quản lý khách hàng, một hệ thống CRM (quản lý quan hệ khách hàng) như Salesforce có tích hợp tính năng AI phân tích sắc thái của khách hàng dựa trên dữ liệu xã hội, thông tin giao tiếp của khách hàng như email, hợp đồng để hiểu rõ hơn dự định của khách hàng từ đó điều chỉnh cách tiếp cận và phục vụ khách hàng tốt hơn. TensorFlow là một nền tảng mở cho việc nghiên cứu và ứng dụng các phương pháp học máy có thể đáp ứng các ứng dụng trong nhận dạng ảnh, giọng nói, xử lý ngôn ngữ tự nhiên, phân tích dữ liệu time series…

Khi lượng dữ liệu thu thập đủ lớn, doanh nghiệp đã rõ hơn về quy trình xử lý, phát hiện các vấn đề tiềm tàng, có lực lượng nhân viên có kinh nghiệm trong cả công nghệ lẫn nghiệp vụ doanh nghiệp, thì doanh nghiệp có thể triển khai các giải pháp AI phức tạp và có các tính năng xử lý độc lập với sự tương tác của con người.

Khi ứng dụng AI, các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam cần thận trọng trước những vấn đề gì?

Các vấn đề cần thận trọng tôi đã đề cập trong bài “AI: một cách tiếp cận CMCN 4.0 trong doanh nghiệp” với một số cạm bẫy như: đánh giá sai về khả năng công nghệ, thiếu nhân lực triển khai các dự án AI, coi AI có thể mang lại những điều “thần kỳ cho doanh nghiệp” hay cố gắng theo đuổi giải pháp của các công ty công nghệ lớn.

Một vấn đề nữa mà tôi lo ngại là các hệ thống IT của chúng ta không đủ “mở” hay “trong suốt” để tích hợp các giải pháp AI. Chẳng hạn khi đề cập với một doanh nghiệp trong nước về ứng dụng phân tích email để đánh giá tự động phản hồi của khách hàng và gợi ý các câu trả lời cho khách hàng, doanh nghiệp đó nói luôn là không thể được vì nhân viên trong công ty chỉ dùng gmail cá nhân để giao tiếp với khách hàng, email công việc và email cá nhân nhiều khi lẫn lộn.

Đây là sự khác biệt với các doanh nghiệp nước ngoài khi thư cá nhân và công việc phải rạch ròi, có thể xử lý bằng một số hệ thống tự động nhưng nó được bảo vệ cẩn thận bởi các công nghệ bảo mật và hành lang pháp lý.

Thêm nữa, các hệ thống IT của nhiều doanh nghiệp có thể chưa được thiết kế theo dạng các “micro service” để tích hợp với các giải pháp AI. Ví dụ hệ thống AI chỉ cải tiến một quy trình của hệ thống bằng lấy dữ liệu từ thành phần A, xử lý rồi tương tác với thành phần B. Những A và B lại không tách rời nhau ra hay phần giao diện lập trình của A và B hoàn toàn đóng hoặc chỉ chạy trên nền tảng mà module AI không hỗ trợ thì cũng rất khó có thể thử nghiệm giải pháp AI trên đó.

Theo anh, AI có phải là “chìa khóa vạn năng” cho mọi vấn đề của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam khi tiếp cận cách mạng 4.0?

Chắc chắn AI không phải là “chìa khóa vạn năng” cho mọi vấn đề của doanh nghiệp khi tiếp cận cách mạng 4.0. Nó thậm chí còn là “cạm bẫy” đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ nếu dùng sai nó hay ảo tưởng về nó. Ví dụ bị sa lầy vào một giải pháp quá phức tạp hay tốn kém mà giá trị mang lại của nó quá ít do đặc thù của doanh nghiệp.

Tôi đã chứng kiến một công ty rất hào hứng với demo của một ứng dụng chatbot và muốn theo đuổi ứng dụng nó. Tuy nhiên ý định này thất bại vì mặc dù có lượng người dùng giao tiếp với hệ thống nhiều nhưng những truy vấn của khách hàng không đủ lâu hay đủ dài để dùng đến công nghệ chatbot hay công ty chưa có dữ liệu đầy đủ để “đào tạo” cho các chatbot đấy.

Một số người ví von AI bây giờ như cái máy tính PC hay tin học ở thập kỷ 1980. Nhiều người nói về nó, biết nó có thể làm được những điều thú vị, kỳ vĩ nhưng không phải ai cũng biết cách dùng, và lợi ích nó mang lại quá ít so với số tiền bỏ ra mua nó lúc đấy. Thậm chí không hiệu quả bằng một máy tính bấm tay. Nhưng cuối cùng cũng đến giai đoạn PC rẻ đi, nhiều người biết dùng hơn và ứng dụng của nó trở nên thiết yếu như ta đang thấy hằng ngày.

AI không thể giải quyết được vấn đề của doanh nghiệp nếu vấn đề đó chưa được định nghĩa rõ, thu thập dữ liệu cẩn thận để xác định ra được giới hạn mà ứng dụng AI có thể “phá vỡ” được nó.AI nên được cân nhắc ở những ứng dụng mang lại thêm giá trị cho doanh nghiệp, ví dụ cắt giảm chi phí, tự động hóa một số quy trình (vì các yếu tố này đã rất rõ ràng với kinh nghiệm của doanh nghiệp) thay vì để nó tự tìm ra thị trường, sản phẩm, tính năng mới vì đây là các khía cạnh cần sự nhạy bén của con người, sẽ thiếu nguồn tri thức, dữ liệu và quy tắc chung để máy móc có thể xử lý.

Có ý kiến cho rằng, hiện nay các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam khó ứng dụng AI vì còn thiếu nhân lực được đào tạo về AI. Anh nghĩ gì về ý kiến này?

Trong thời kỳ công nghệ và thế giới đang thay đổi rất nhanh, nguồn nhân lực nào cũng có thể thiếu, thậm chí với cả các doanh nghiệp lớn và tại các nước phát triển. Thử tính xem chúng ta đã có bao nhiêu sinh viên tốt nghiệp ngành Công nghệ thông tin? Mỗi sinh viên Công nghệ thông tin của chúng ta đã được học về môn AI trong chương trình đại học hay chưa? Bao nhiêu đề tài tốt nghiệp, nghiên cứu, thực tập liên quan đến lĩnh vực AI? Từ thời tôi học đại học trong nước cách đây 20 năm, tỉ lệ đó đã không phải nhỏ. Như vậy chúng ta có sự nhìn nhận, có quá trình dài chuẩn bị cho nguồn nhân lực đó. Nên nếu có thiếu thì đấy là do chúng ta chưa biết tận dụng nguồn nhân lực tiềm năng ấy, hoặc nguồn nhân lực ấy còn thụ động trong cách suy nghĩ, trong cách tiếp cận và ứng dụng công nghệ.

Cách đào tạo trong trường đại học chúng ta cũng vẫn phải tiếp tục thay đổi, cải tiến, không chỉ ở chương trình mà ở phương thức dạy và học. Trong một ngành học có tiềm năng ứng dụng AI các bài tập thực hành, bài tập lớn sẽ đóng góp vào kết quả cuối cùng của sinh viên chứ không thể chỉ nghe giảng và làm bài thi là hoàn thành môn học. Nên tạo điều kiện cho sinh viên đại học tham gia vào các đề tài nghiên cứu cùng với các nghiên cứu sinh và thực tập thêm tại các doanh nghiệpđể có bài toán, dữ liệu cụ thể, có kỹ năng tổng hợp và đánh giá dữ liệu, phân tích kết quả của các giải thuật AI.

Tại công ty tôi làm việc có những kỹ sư trước đây họ chỉ làm về thiết kế giao diện hay học một ngành hoàn toàn khác (kinh tế, vật lý). Nhưng khi xã hội đề cập nhiều về các vấn đề AI, machine learning,họ sẵn sàng dành thời gian ngoài giờ đăng ký khoá học trên mạng, download các chương trình mã nguồn mở về để tìm hiểu và tự đào tạo kiến thức cho mình. Chỉ khoảng 3 tháng họ đã có để dùng thử công cụ để xử lý các dữ liệu của công ty. Có thể chưa được gọi là chuyên gia nhưng ít nhất họ có những hiểu biết nhất định để tham gia vào các dự án ứng dụng AI của công ty hay có các nhận xét, đóng góp thiết thực về các giải pháp.

Tóm lại nếu đã xác định là xu thế, nhu cầu thì cả 3 phía: doanh nghiệp, nhà trường, người kỹ sư đều phải có những chuyển đổi để đáp ứng vấn đề nhân lực. Cái này không chỉ trong lĩnh vực AI mà trong nhiều lĩnh vực công nghệ mà chúng ta còn cho là thiếu khác.

Vậy có cách làm thiết thực nào để các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam có thể tận dụng được lợi thế của AI?

Là người đang làm việc ở môi trường nước ngoài khá lâu, tôi e có thể những ý kiến của mình sẽ thiếu thiết thực với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam. Chỉ xin đóng góp mấy ý chung chung thế này:

Không nên có “tư tưởng đi tắt đón đầu”, chúng ta có thể tiếp cận nhanh, quyết liệt, linh hoạt vì chưa bị phụ thuộc vào lượng khách hàng lớn hay hệ thống lớn, nhưng không có nghĩa là chúng ta bỏ qua từng công đoạn số hóa, hiểu rõ các quy tắc, quy trình nghiệp vụ của doanh nghiệp rồi tiến tới tự động hóa, áp dụng các giải thuật, hệ thống thông minh hỗ trợ doanh nghiệp.

Lãnh đạo doanh nghiệp và nhân viên luôn tâm niệm máy móc để phục vụ và tối ưu hóa công việc của con người. AI cũng chỉ là một phần trong tiến trình phát triển ấy, không nên thổi phồng hay lơ là nó.Nếu mỗi người luôn trăn trở suy nghĩ tối ưu hoá các quy trình, bắt tay vào thử nghiệm công nghệ mới để tháo gỡ các vấn đề của doanh nghiệp, dù là từng bước nhỏ, thì sẽ nảy sinh ra các ý tưởng, giải pháp sử dụng AI.

Nên kết hợp, bắt tay với các nhóm nghiên cứu, doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước cung cấp các giải pháp AI để tiết kiệm chi phí, tạo môi trường và kinh nghiệm cho nguồn nhân lực và tiềm năng phát triển AI trong nước. Dĩ nhiên nhà nước nên hỗ trợ một phần cho việc kết hợp này. Sẽ rất đáng tiếc và bất lợi cho tương lai nếu nguồn dữ liệu, dịch vụ của các doanh nghiệp trong nước bị rơi dần vào các doanh nghiệp nước ngoài vì họ có giải pháp AI ban đầu tốt hơn.

Cảm ơn anh!

Thanh Nhàn (thực hiện)

TAGS:

Tin bài khác
Thủ tướng Chính phủ: Tạo xung lực mới cho tăng trưởng nhanh, bền vững giai đoạn 2026 - 2030

Thủ tướng Chính phủ: Tạo xung lực mới cho tăng trưởng nhanh, bền vững giai đoạn 2026 - 2030

Chủ trì Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2025, triển vọng 2026, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh yêu cầu tạo xung lực phát triển mới cho nền kinh tế, hướng tới tăng trưởng cao gắn với chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và mục tiêu tăng trưởng “hai con số” trong giai đoạn 2026–2030.
Cảnh báo chiến lược sản xuất và thương mại lúa gạo khi Việt Nam chi 1,5 tỉ USD nhập gạo

Cảnh báo chiến lược sản xuất và thương mại lúa gạo khi Việt Nam chi 1,5 tỉ USD nhập gạo

Việc Việt Nam chi tới 1,5 tỉ USD để nhập khẩu gạo chỉ trong 11 tháng đầu năm 2025 - mức cao nhất từ trước tới nay - đặt ra một nghịch lý và là lúc chúng ta phải tính đến một chiến lược khác cho hạt gạo nội địa. Đây không còn là câu chuyện cân đối cung cầu đơn thuần, mà là lời cảnh báo về chiến lược sản xuất, xuất khẩu và định vị giá trị gạo Việt trên thị trường toàn cầu.
Thủ tướng Chính phủ: Quy hoạch Hà Nội phải có tầm nhìn trăm năm, phát huy tối đa lợi thế Thủ đô

Thủ tướng Chính phủ: Quy hoạch Hà Nội phải có tầm nhìn trăm năm, phát huy tối đa lợi thế Thủ đô

Thủ tướng Chính phủ gợi mở nhiều định hướng quan trọng trong quy hoạch không gian phát triển, trong đó nhấn mạnh việc khai thác hiệu quả cả không gian ngầm, không gian mặt đất và không gian vũ trụ. Cùng với đó là định hướng phát triển “làng trong phố, phố trong làng”, gắn với phát triển xanh và phát triển số – những xu thế đang phổ biến trên thế giới.
Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình làm việc với Hải Phòng: Khơi thông “luồng xanh” thể chế, tạo động lực tăng trưởng mới

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình làm việc với Hải Phòng: Khơi thông “luồng xanh” thể chế, tạo động lực tăng trưởng mới

Sáng 15/12, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình cùng Đoàn công tác của Chính phủ đã làm việc với thành phố Hải Phòng về tình hình phát triển kinh tế – xã hội, trọng tâm là sản xuất kinh doanh, đầu tư công, xuất nhập khẩu, xây dựng hạ tầng, nhà ở xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia và việc triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp. Buổi làm việc có ý nghĩa quan trọng, góp phần tháo gỡ các “điểm nghẽn”, mở ra không gian và động lực phát triển mới cho thành phố trong giai đoạn tới.
TP. Hồ Chí Minh tìm “đòn bẩy” FDI chất lượng cao cho hành trình trở thành siêu đô thị

TP. Hồ Chí Minh tìm “đòn bẩy” FDI chất lượng cao cho hành trình trở thành siêu đô thị

Trong bối cảnh nguồn lực trong nước còn hạn chế, TP. Hồ Chí Minh đang xác định thu hút dòng vốn FDI chất lượng cao là động lực then chốt để hiện thực hóa mục tiêu trở thành siêu đô thị thông minh và trung tâm tài chính tầm khu vực, với trọng tâm là công nghệ cao, hạ tầng xanh và phát triển bền vững.
Lâm Đồng phê duyệt đầu tư gần 3.800 tỷ đồng làm sân bay Phan Thiết

Lâm Đồng phê duyệt đầu tư gần 3.800 tỷ đồng làm sân bay Phan Thiết

Ngày 15/12/2025, UBND tỉnh Lâm Đồng chính thức ban hành quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư dự án Cảng hàng không Phan Thiết - Hạng mục hàng không dân dụng tại phường Mũi Né. Dự án có tổng vốn đầu tư dự kiến gần 3.800 tỷ đồng, được thực hiện qua hình thức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư.
Cần một cơ chế phân vùng lương linh hoạt, phù hợp thực tế địa phương

Cần một cơ chế phân vùng lương linh hoạt, phù hợp thực tế địa phương

Cơ quan chức năng cần rà soát, điều chỉnh phân vùng đồng bộ trên phạm vi cả nước, dựa trên đánh giá lại chi phí sinh hoạt, điều kiện lao động, thực tế địa bàn sau sáp nhập cũng như không làm tăng chi phí cho doanh nghiệp, theo bà Hồ Thị Kim Ngân - Phó trưởng ban Quan hệ Lao động Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam.
Quảng Ninh đồng loạt khởi công, khánh thành hàng loạt dự án quy mô lớn trong tháng 12

Quảng Ninh đồng loạt khởi công, khánh thành hàng loạt dự án quy mô lớn trong tháng 12

Theo báo cáo của Đảng ủy UBND tỉnh Quảng Ninh, dự kiến trong ngày 19/12, toàn tỉnh sẽ tổ chức khởi công 26 dự án mới với tổng mức đầu tư khoảng 383.000 tỷ đồng, đồng thời khánh thành 5 dự án đã hoàn thành, tổng vốn đầu tư gần 7.000 tỷ đồng.
Hà Nội lần đầu đưa chỉ tiêu “không khí sạch” vào nghị quyết

Hà Nội lần đầu đưa chỉ tiêu “không khí sạch” vào nghị quyết

Lần đầu tiên, chỉ số chất lượng không khí (AQI) được đưa vào Nghị quyết phát triển kinh tế – xã hội Thủ đô năm 2026, với mục tiêu trên 80% số ngày trong năm đạt mức tốt và trung bình. Hà Nội đang triển khai hàng loạt giải pháp cấp bách và căn cơ để “giải cứu” bầu không khí.
TS. Võ Trí Thành: Ổn định vĩ mô và đầu tư công tạo sức bật kinh tế 2025

TS. Võ Trí Thành: Ổn định vĩ mô và đầu tư công tạo sức bật kinh tế 2025

TS. Võ Trí Thành phân tích vai trò của ổn định kinh tế vĩ mô và sức lan tỏa đầu tư công như hai động lực cốt lõi giúp kinh tế Việt Nam củng cố nền tảng và bứt phá mạnh mẽ trong năm 2025.
Thủ tướng yêu cầu xử lý nghiêm, thu hồi nhà ở xã hội mua bán trái quy định

Thủ tướng yêu cầu xử lý nghiêm, thu hồi nhà ở xã hội mua bán trái quy định

Trước tình trạng “chạy suất”, môi giới trái phép và mua bán nhà ở xã hội sai đối tượng tại nhiều địa phương, Thủ tướng yêu cầu chấn chỉnh toàn diện, xử phạt và thu hồi căn hộ với các trường hợp vi phạm, đồng thời siết chặt quy trình xét duyệt, công khai thông tin và tăng cường hậu kiểm.
Hà Nội phát triển công nghiệp hỗ trợ, hướng tới mạng lưới doanh nghiệp chuẩn quốc tế vào năm 2035

Hà Nội phát triển công nghiệp hỗ trợ, hướng tới mạng lưới doanh nghiệp chuẩn quốc tế vào năm 2035

Hà Nội vừa phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2026–2030, định hướng đến năm 2035, với mục tiêu hình thành mạng lưới doanh nghiệp quy mô lớn, đủ khả năng tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu và đáp ứng yêu cầu của nền công nghiệp hiện đại.
Hà Nội phục hồi mạnh mẽ sản xuất công nghiệp, tạo lực đẩy cho tăng trưởng

Hà Nội phục hồi mạnh mẽ sản xuất công nghiệp, tạo lực đẩy cho tăng trưởng

Sản xuất công nghiệp của Hà Nội tiếp tục khởi sắc trong 11 tháng năm 2025, với chỉ số IIP tăng 7% so với cùng kỳ. Đà phục hồi rõ nét của các ngành chế biến – chế tạo và những nỗ lực tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp giúp khu vực công nghiệp giữ vai trò trụ cột trong tăng trưởng kinh tế Thủ đô.
Việt Nam – Hoa Kỳ bước vào kỷ nguyên thương mại mới: Từ tăng trưởng nóng đến yêu cầu bứt phá bền vững

Việt Nam – Hoa Kỳ bước vào kỷ nguyên thương mại mới: Từ tăng trưởng nóng đến yêu cầu bứt phá bền vững

30 năm sau khi bình thường hóa quan hệ, Việt Nam và Hoa Kỳ đã trở thành đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của nhau. Tổng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ đạt kỷ lục 138,6 tỷ USD và chiếm hơn 32% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Quốc hội thông qua Luật Báo chí (sửa đổi): Làm rõ vị trí cơ quan báo chí chủ lực đa phương tiện và cơ chế tài chính đặc thù

Quốc hội thông qua Luật Báo chí (sửa đổi): Làm rõ vị trí cơ quan báo chí chủ lực đa phương tiện và cơ chế tài chính đặc thù

Với 437/440 đại biểu tán thành, Luật Báo chí (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua sáng 10/12. Luật gồm 4 chương, 51 điều, áp dụng từ ngày 1/7/2026, đáng chú ý là quy định về cơ quan báo chí chủ lực đa phương tiện và cơ chế tài chính đặc thù gắn với mức độ tự chủ.