Thứ năm 18/12/2025 12:08
Hotline: 024.355.63.010
Email: banbientap.dnhn@gmail.com
Thời cuộc

Dự thảo “Made in VietNam”- Công cụ đấu tranh phòng chống gian lận thương mại

12/10/2020 00:00
Với Dự thảo Thông tư quy định về cách xác định sản phẩm, hàng hóa là sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam, các doanh nghiệp chân chính sẽ không phải đối diện với nguy cơ cáo buộc “gian lận xuất xứ”, tránh được rủi ro kiện tụng

Thứ trưởng Trần Quốc Khánh

Làm rõ hơn sự cần thiết phải ban hành Thông tư, sau đó là về nội dung của Thông tư và về các tác động có thể của Thông tư đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cùng đại diện các Cục, Vụ trực thuộc Bộ trong buổi trao đổi với báo chí để giải thích và làm rõ hơn nội dung của Dự thảo Thông tư.

Dưới đây là nội dung trao đổi giữa đại diện Bộ Công Thương và các phóng viên, nhà báo về Dự thảo Thông tư quy định về cách xác định sản phẩm, hàng hóa là sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam:

Vì sao tới bây giờ Bộ Công Thương mới đưa ra quy định về cách xác định thế nào là hàng sản xuất tại Việt Nam?

Trên thực tế, theo đúng chức năng và phạm vi quản lý nhà nước, Bộ Công Thương đã ban hành nhiều văn bản quy định như thế nào thì một sản phẩm/hàng hóa được coi là sản phẩm/hàng hóa của Việt Nam, hay nói cách khác là có xuất xứ Việt Nam.

Tuy nhiên, các quy định này chỉ áp dụng cho hàng xuất khẩu, giúp hàng hóa của ta được hưởng ưu đãi thuế khi đi vào các thị trường ngoài hoặc phục vụ các mục tiêu khác của quản lý ngoại thương.

Với hàng hóa sản xuất và sau đó lưu thông trong nước, việc ghi nước xuất xứ được thực hiện theo Nghị định số 43/2017 của Chính phủ về nhãn hàng hóa. Đây là lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ, không phải của Bộ Công Thương.

Những quy định chính trong dự thảo Thông tư là gì?

Dự thảo Thông tư bao gồm một số nội dung chính như sau:

- Các điều khoản chung về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng và giải thích các thuật ngữ sử dụng trong Thông tư;

- Các trường hợp được phép và không được phép thể hiện là hàng hóa của Việt Nam, cách thức và ngôn ngữ thể hiện;

- Các trường hợp, tiêu chí để hàng hóa được coi là hàng hóa của Việt Nam;

- Các quy định khác liên quan đến việc xác định hàng hóa của Việt Nam (gia công đơn giản, bao bì phụ kiện, tỷ lệ linh hoạt, yếu tố gián tiếp);

- Quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa và tổ chức thực hiện.

Trường hợp nào thì hàng hóa được phép thể hiện là hàng hóa của Việt Nam?

Hàng hóa được phép thể hiện là hàng hóa của Việt Nam trong 2 trường hợp sau:

- Hàng hóa có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam theo quy định tại Điều 8 Thông tư.

- Hàng hóa có xuất xứ không thuần túy hoặc không được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam nhưng trải qua công đoạn gia công, chế biến cuối cùng tại Việt Nam làm thay đổi cơ bản tính chất của hàng hóa theo quy định tại Điều 9 của Thông tư.

Tại sao trong ASEAN hàng hóa phải đạt hàm lượng giá trị gia tăng là 40% mới được coi là đáp ứng quy tắc xuất xứ mà tại Thông tư này, chỉ cần hàm lượng 30% đã được coi là hàng hóa Việt Nam?

Trong Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) và các hiệp định thương mại tự do (FTA) khác, hàm lượng giá trị gia tăng được gọi "hàm lượng giá trị khu vực" (RVC). Tên gọi này đã thể hiện tính chất "khu vực" của quy tắc xuất xứ, tức là cho phép cộng gộp xuất xứ của các nước thành viên.

Ví dụ, với RVC 40% trong ASEAN thì 1 sản phẩm có 20% giá trị của Thái Lan, 10% của Philippines, 5% của Lào và 5% của Việt Nam sẽ được coi là đạt tiêu chí xuất xứ ASEAN và được cấp Giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu D. Thông tư này quy định chặt hơn. Cụ thể, tỷ lệ giá trị gia tăng 30% nêu tại Thông tư là chỉ tính riêng giá trị của Việt Nam.

Với quy định như tại dự thảo Thông tư, nhiều sản phẩm có thể đáp ứng xuất xứ ASEAN và được cấp Giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu D nhưng chưa chắc đã đủ điều kiện để được coi là hàng hóa của Việt Nam.

Với hàng hóa có xuất xứ không thuần túy, có phải cứ đạt hàm lượng giá trị gia tăng trên 30% là được coi là hàng hóa của Việt Nam?

Không nhất thiết. Hàng hóa có xuất xứ không thuần túy chỉ được coi là hàng Việt Nam khi khâu sản xuất, chế biến cuối cùng diễn ra tại Việt Nam và khâu đó phải làm thay đổi cơ bản tính chất của hàng hóa, không phải là gia công, chế biến đơn giản như quy định tại Điều 10 của dự thảo Thông tư.

Tại phụ lục các danh mục hàng hóa kèm theo dự thảo Thông tư, Bộ Công Thương liệt kê các mặt hàng, trong đó hầu hết phải đạt tỷ lệ hàm lượng giá trị gia tăng nội địa 30% (một số ít sản phẩm 40%). Như vậy ngoài việc phải đảm bảo công đoạn cuối cùng không phải là công đoạn đơn giản, thì đây là tỷ lệ tối thiểu giá trị gia tăng nội địa của sản phẩm nếu muốn được công nhận, dán mác hàng sản xuất tại Việt Nam?

Đối với một mặt hàng cụ thể, nếu tiêu chí xác định "hàng hóa của Việt Nam" là VAC 30% thì 30% là ngưỡng thấp nhất mà VAC của hàng hóa đó phải đạt được để được coi là hàng hóa của Việt Nam.

Thông tư có đặt ra thủ tục hành chính nào buộc doanh nghiệp phải tuân thủ hay không?

Dự thảo Thông tư không quy định bất kỳ một thủ tục hành chính mới nào mà doanh nghiệp phải tuân thủ.

Thực hiện quy định của Thông tư có làm doanh nghiệp phát sinh thêm chi phí gì không?

Thông tư sẽ không làm phát sinh thêm chi phí cho doanh nghiệp bởi ghi nhãn hàng hóa và công bố nước xuất xứ trên nhãn hàng hóa đã từ lâu là yêu cầu bắt buộc theo quy định của Nghị định 43/2017/NĐ-CP. Thông tư chỉ giúp các tổ chức, cá nhân có căn cứ để thực hiện đúng yêu cầu của Nghị định 43, giúp loại bỏ các trường hợp vô tình hay cố tình vi phạm thông tin về nước xuất xứ.

Với Thông tư này, các doanh nghiệp chân chính sẽ không phải đối diện với nguy cơ cáo buộc "gian lận xuất xứ", tránh được rủi ro kiện tụng và mất uy tín với người tiêu dùng. Ngoài ra, kết hợp với việc thực thi nghiêm túc Nghị định 43 tại cửa khẩu, Thông tư cũng sẽ giúp loại bỏ dần tình trạng hàng nhập khẩu nhập nhèm "đội lốt" hàng Việt Nam như đã rải rác xảy ra trong thời gian qua.

Doanh nghiệp lo ngại về việc tự xác định và ghi nhãn "Sản xuất tại Việt Nam" không biết có đảm bảo chính xác không. Bộ Công Thương có tính đến khả năng Nhà nước có cơ quan đứng ra đánh giá và cấp giấy công nhận để họ yên tâm?

Ban soạn thảo chưa bao giờ tính đến khả năng này bởi cơ chế "đánh giá - công nhận" sẽ thực sự là gánh nặng cho cả doanh nghiệp cũng như cơ quan quản lý. Thông tư này, nếu được ban hành, sẽ do doanh nghiệp tự giác thực hiện. Nhà nước chỉ sử dụng Thông tư để phân xử đúng - sai khi xuất hiện tình huống đòi hỏi phải có sự phân xử đúng - sai, thí dụ như vụ Khaisilk trước đây.

Các sản phẩm từ trước tới nay vẫn được dán nhãn “Made in Viet Nam” hay sử dụng danh xưng "hàng Việt Nam" sẽ được ứng xử ra sao?

Kể từ ngày Thông tư có hiệu lực thi hành, việc thể hiện nội dung hàng hóa của Việt Nam trên nhãn hàng hóa và/hoặc trên tài liệu, vật phẩm chứa đựng thông tin liên quan đến hàng hóa phải tuân thủ các quy định của Thông tư, không có ngoại lệ.

Dự thảo Thông tư mới đưa ra các tiêu chí xác định như thế nào là hàng hóa của Việt Nam hay sản xuất tại Việt Nam. Tại sao không đề cập đến các khái niệm như "Lắp ráp tại Việt Nam", hay "Sản xuất bởi [công ty nào đó]", hay "Thiết kế tại Việt Nam", hay "Thiết kế bởi [công ty nào đó]"? Một sản phẩm không đủ điều kiện để thể hiện là hàng hóa Việt Nam sẽ ghi xuất xứ của nước nào nếu doanh nghiệp nhập khẩu đầu vào từ nhiều nước khác nhau?

Ban soạn thảo đã dự thảo 1 điều khoản đề cập đến các khái niệm này để giúp doanh nghiệp có thêm các hình thức thể hiện trong trường hợp hàng hóa không đáp ứng được các tiêu chí để được coi là hàng hóa của Việt Nam. Tuy nhiên, do Điều 15 của Nghị định 43/2017 không cho phép doanh nghiệp được sử dụng các cụm từ này, Thông tư lại là văn bản dưới cấp Nghị định nên Ban soạn thảo đã phải bỏ điều khoản này ra. Cho tới nay, chúng tôi cũng chưa rõ Bộ Tư pháp có chấp nhận Điều 4 của dự thảo Thông tư hay không bởi Điều này đưa ra các quy định rộng hơn so với Điều 15 của Nghị định 43/2017.

Vấn đề hình thức văn bản là một trong những vấn đề gây tranh luận trong quá trình trao đổi về sự cần thiết phải ban hành một văn bản quy phạm pháp luật giúp xác định như thế nào là hàng hóa của Việt Nam. Ban soạn thảo nhận thấy nên ban hành ở cấp Nghị định nhưng một số cơ quan khác lại không cho là như vậy. Họ không sai bởi Nghị định chỉ dùng để hướng dẫn luật trong khi chúng ta lại chưa có luật về thế nào là hàng hóa của Việt Nam. Nếu ban hành Nghị định thì sẽ là một Nghị định "không đầu", điều không được luật pháp hiện hành cho phép.

Xuất phát từ đây, nếu doanh nghiệp nhập khẩu đầu vào từ nhiều nước khác nhau, sản phẩm cuối cùng lại không đủ điều kiện để thể hiện là hàng hóa của Việt Nam thì doanh nghiệp sẽ thể hiện xuất xứ theo quy định của Nghị định 43/2017, tức là tự xác định và tự chịu trách nhiệm, miễn là đừng ghi xuất xứ Việt Nam.

Các trường hợp vi phạm quy định của Thông tư sẽ áp dụng chế tài như thế nào?

Theo quy định tại Dự thảo, Tổng cục Quản lý thị trường là đơn vị chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan của Bộ Công Thương và các cơ quan có thẩm quyền khác tổ chức thực hiện việc kiểm tra, thanh tra, xử lý các vi phạm trong quá trình thực thi Thông tư này. Trường hợp phát hiện vi phạm, Tổng cục Quản lý thị trường và các cơ quan có thẩm quyền khác sẽ tùy theo mức độ vi phạm để đưa ra chế tài xử lý phù hợp với quy định của pháp luật.

Bộ Công Thương sẽ làm gì để doanh nghiệp, người dân cũng như các cơ quan quản lý liên quan hiểu được mục tiêu của Bộ Công Thương cũng như các quy định của Thông tư này?

Việc đăng tải Dự thảo Thông tư là bước đầu tiên. Sau đó Bộ Công Thương sẽ tổ chức các buổi hội thảo giới thiệu dự thảo và xin ý kiến các hiệp hội, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân có liên quan về các quy định tại dự thảo.

Bộ Công Thương cũng sẽ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan truyền thông để giải thích, làm rõ về mục tiêu ban hành Thông tư cũng như những nội dung mang tính kỹ thuật để doanh nghiệp, người dân có thể hiểu và góp ý được sát thực nhất.

Thu Giang – Thảo Trang (lược ghi)

Tin bài khác
Siết chặt quản lý ô tô nhập khẩu dạng quà biếu, quà tặng

Siết chặt quản lý ô tô nhập khẩu dạng quà biếu, quà tặng

Bộ Công Thương kiến nghị tăng cường quản lý ô tô nhập khẩu dưới dạng quà biếu, tặng và tài sản di chuyển do phát hiện hàng loạt dấu hiệu trục lợi, lách luật, gây ảnh hưởng đến ngành công nghiệp ô tô trong nước.
Nông nghiệp tăng trưởng vượt mục tiêu, xuất khẩu duy trì đà kỷ lục

Nông nghiệp tăng trưởng vượt mục tiêu, xuất khẩu duy trì đà kỷ lục

GDP ngành nông nghiệp năm 2025 ước tăng khoảng 4%, vượt xa mục tiêu 2,5–3%/năm; giai đoạn 2021–2025, giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tăng bình quân 10,5%/năm. Kết quả này phản ánh hiệu quả của quá trình tái cơ cấu ngành theo hướng kinh tế nông nghiệp, xanh và bền vững.
Mở hành lang pháp lý, thúc đẩy ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam bứt phá

Mở hành lang pháp lý, thúc đẩy ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam bứt phá

Luật Công nghiệp Công nghệ số 2025 được kỳ vọng trở thành “cú hích” thể chế quan trọng, tạo hành lang pháp lý cho công nghiệp bán dẫn và cơ chế ưu đãi vượt trội nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn về hạ tầng, nhân lực và chuỗi giá trị, qua đó đưa chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam từ tầm nhìn sang hành động cụ thể.
Giữ vai trò xuất khẩu chủ lực, ngành dệt may đối mặt bài toán bền vững

Giữ vai trò xuất khẩu chủ lực, ngành dệt may đối mặt bài toán bền vững

Ngành dệt may Việt Nam tận dụng FTA để mở rộng chuỗi cung ứng, nhưng dư địa tăng trưởng thu hẹp, buộc phải chuyển sang phát triển chiều sâu và bền vững.
Kinh tế Việt Nam 2025: Thách thức chồng chất nhưng vẫn duy trì đà tăng trưởng ấn tượng

Kinh tế Việt Nam 2025: Thách thức chồng chất nhưng vẫn duy trì đà tăng trưởng ấn tượng

“Tăng trưởng kinh tế được thúc đẩy mạnh mẽ, dự kiến cả năm 2025 đạt trên 8%, nằm trong số các nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới” - ông Nguyễn Thanh Nghị - Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương thông tin.
Thủ tướng Chính phủ: Tạo xung lực mới cho tăng trưởng nhanh, bền vững giai đoạn 2026 - 2030

Thủ tướng Chính phủ: Tạo xung lực mới cho tăng trưởng nhanh, bền vững giai đoạn 2026 - 2030

Chủ trì Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2025, triển vọng 2026, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh yêu cầu tạo xung lực phát triển mới cho nền kinh tế, hướng tới tăng trưởng cao gắn với chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và mục tiêu tăng trưởng “hai con số” trong giai đoạn 2026–2030.
Cảnh báo chiến lược sản xuất và thương mại lúa gạo khi Việt Nam chi 1,5 tỉ USD nhập gạo

Cảnh báo chiến lược sản xuất và thương mại lúa gạo khi Việt Nam chi 1,5 tỉ USD nhập gạo

Việc Việt Nam chi tới 1,5 tỉ USD để nhập khẩu gạo chỉ trong 11 tháng đầu năm 2025 - mức cao nhất từ trước tới nay - đặt ra một nghịch lý và là lúc chúng ta phải tính đến một chiến lược khác cho hạt gạo nội địa. Đây không còn là câu chuyện cân đối cung cầu đơn thuần, mà là lời cảnh báo về chiến lược sản xuất, xuất khẩu và định vị giá trị gạo Việt trên thị trường toàn cầu.
Thủ tướng Chính phủ: Quy hoạch Hà Nội phải có tầm nhìn trăm năm, phát huy tối đa lợi thế Thủ đô

Thủ tướng Chính phủ: Quy hoạch Hà Nội phải có tầm nhìn trăm năm, phát huy tối đa lợi thế Thủ đô

Thủ tướng Chính phủ gợi mở nhiều định hướng quan trọng trong quy hoạch không gian phát triển, trong đó nhấn mạnh việc khai thác hiệu quả cả không gian ngầm, không gian mặt đất và không gian vũ trụ. Cùng với đó là định hướng phát triển “làng trong phố, phố trong làng”, gắn với phát triển xanh và phát triển số – những xu thế đang phổ biến trên thế giới.
Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình làm việc với Hải Phòng: Khơi thông “luồng xanh” thể chế, tạo động lực tăng trưởng mới

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình làm việc với Hải Phòng: Khơi thông “luồng xanh” thể chế, tạo động lực tăng trưởng mới

Sáng 15/12, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình cùng Đoàn công tác của Chính phủ đã làm việc với thành phố Hải Phòng về tình hình phát triển kinh tế – xã hội, trọng tâm là sản xuất kinh doanh, đầu tư công, xuất nhập khẩu, xây dựng hạ tầng, nhà ở xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia và việc triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp. Buổi làm việc có ý nghĩa quan trọng, góp phần tháo gỡ các “điểm nghẽn”, mở ra không gian và động lực phát triển mới cho thành phố trong giai đoạn tới.
TP. Hồ Chí Minh tìm “đòn bẩy” FDI chất lượng cao cho hành trình trở thành siêu đô thị

TP. Hồ Chí Minh tìm “đòn bẩy” FDI chất lượng cao cho hành trình trở thành siêu đô thị

Trong bối cảnh nguồn lực trong nước còn hạn chế, TP. Hồ Chí Minh đang xác định thu hút dòng vốn FDI chất lượng cao là động lực then chốt để hiện thực hóa mục tiêu trở thành siêu đô thị thông minh và trung tâm tài chính tầm khu vực, với trọng tâm là công nghệ cao, hạ tầng xanh và phát triển bền vững.
Lâm Đồng phê duyệt đầu tư gần 3.800 tỷ đồng làm sân bay Phan Thiết

Lâm Đồng phê duyệt đầu tư gần 3.800 tỷ đồng làm sân bay Phan Thiết

Ngày 15/12/2025, UBND tỉnh Lâm Đồng chính thức ban hành quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư dự án Cảng hàng không Phan Thiết - Hạng mục hàng không dân dụng tại phường Mũi Né. Dự án có tổng vốn đầu tư dự kiến gần 3.800 tỷ đồng, được thực hiện qua hình thức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư.
Cần một cơ chế phân vùng lương linh hoạt, phù hợp thực tế địa phương

Cần một cơ chế phân vùng lương linh hoạt, phù hợp thực tế địa phương

Cơ quan chức năng cần rà soát, điều chỉnh phân vùng đồng bộ trên phạm vi cả nước, dựa trên đánh giá lại chi phí sinh hoạt, điều kiện lao động, thực tế địa bàn sau sáp nhập cũng như không làm tăng chi phí cho doanh nghiệp, theo bà Hồ Thị Kim Ngân - Phó trưởng ban Quan hệ Lao động Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam.
Quảng Ninh đồng loạt khởi công, khánh thành hàng loạt dự án quy mô lớn trong tháng 12

Quảng Ninh đồng loạt khởi công, khánh thành hàng loạt dự án quy mô lớn trong tháng 12

Theo báo cáo của Đảng ủy UBND tỉnh Quảng Ninh, dự kiến trong ngày 19/12, toàn tỉnh sẽ tổ chức khởi công 26 dự án mới với tổng mức đầu tư khoảng 383.000 tỷ đồng, đồng thời khánh thành 5 dự án đã hoàn thành, tổng vốn đầu tư gần 7.000 tỷ đồng.
Hà Nội lần đầu đưa chỉ tiêu “không khí sạch” vào nghị quyết

Hà Nội lần đầu đưa chỉ tiêu “không khí sạch” vào nghị quyết

Lần đầu tiên, chỉ số chất lượng không khí (AQI) được đưa vào Nghị quyết phát triển kinh tế – xã hội Thủ đô năm 2026, với mục tiêu trên 80% số ngày trong năm đạt mức tốt và trung bình. Hà Nội đang triển khai hàng loạt giải pháp cấp bách và căn cơ để “giải cứu” bầu không khí.
TS. Võ Trí Thành: Ổn định vĩ mô và đầu tư công tạo sức bật kinh tế 2025

TS. Võ Trí Thành: Ổn định vĩ mô và đầu tư công tạo sức bật kinh tế 2025

TS. Võ Trí Thành phân tích vai trò của ổn định kinh tế vĩ mô và sức lan tỏa đầu tư công như hai động lực cốt lõi giúp kinh tế Việt Nam củng cố nền tảng và bứt phá mạnh mẽ trong năm 2025.