Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), kim ngạch xuất khẩu cá ngừ 7 tháng đầu năm 2025 đạt khoảng 542 triệu USD, giảm nhẹ 2,8% so với cùng kỳ năm 2024. Riêng tháng 7, xuất khẩu giảm mạnh gần 19%.
Mỹ vẫn là thị trường lớn nhất đối với cá ngừ Việt Nam, với kim ngạch đạt 184 triệu USD trong nửa đầu năm, chiếm gần 39% tổng giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên, xuất khẩu sang thị trường này trong tháng 7 chỉ đạt 18 triệu USD, giảm mạnh 41% so với cùng kỳ năm trước.
Tại châu Âu, xuất khẩu cá ngừ tiếp tục giảm sâu. Tổng kim ngạch 6 tháng đầu năm chỉ đạt 109 triệu USD, tăng nhẹ gần 1% so với cùng kỳ. Xuất khẩu sang các thị trường chủ lực như Hà Lan và Italy giảm lần lượt 30% và 32%. Riêng xuất khẩu sang Đức ghi nhận mức tăng 36% sau nhiều tháng suy giảm, trong khi nhu cầu tại khu vực Nam Âu vẫn bị ảnh hưởng bởi tình hình kinh tế khó khăn và chi phí logistics tăng cao.
Thị trường thuộc Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) ghi nhận những tín hiệu tích cực với kim ngạch đạt 62 triệu USD, tăng 11%. Trong đó, xuất khẩu sang Nhật Bản và Canada lần lượt tăng 24% và 15%, trở thành điểm sáng trong bức tranh chung ảm đạm.
Ngược lại, xuất khẩu sang các thị trường ngách như Israel, Nga, Chile đang sụt giảm mạnh, phần lớn do ảnh hưởng từ căng thẳng tại khu vực Trung Đông. Trong khi đó, Thái Lan ghi nhận mức tăng trưởng đột biến tới 137%, đạt 20 triệu USD, cho thấy vai trò ngày càng rõ nét của quốc gia này như một trung tâm chế biến và tái xuất cá ngừ.
Về cơ cấu sản phẩm, nhóm thịt/loin cá ngừ đông lạnh (mã HS0304) tiếp tục giữ vai trò chủ lực, với mức tăng 10%, phản ánh nhu cầu ổn định từ các nhà máy chế biến thực phẩm và chuỗi siêu thị quốc tế. Trong khi đó, nhóm sản phẩm cá ngừ chế biến (mã HS16) giảm 5%, chủ yếu do xuất khẩu cá ngừ đóng hộp sụt giảm tới 14%, nguyên nhân là do thiếu nguồn cung nguyên liệu trong nước, ảnh hưởng đến khả năng thực hiện đơn hàng, đặc biệt là với thị trường EU.
![]() |
Xuất khẩu cá ngừ Việt Nam khó cán đích trong năm 2025 |
Theo bà Nguyễn Hà, chuyên gia thị trường cá ngừ của VASEP, việc sửa đổi Nghị định số 37/2024/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung Nghị định số 26/2019/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Thủy sản 2017) hiện vẫn diễn ra chậm, dù Chính phủ đã chỉ đạo triển khai theo trình tự rút gọn. Việc chậm ban hành dự thảo nghị định khiến các doanh nghiệp mất cơ hội tận dụng mùa khai thác cá ngừ và tiếp tục phải đối mặt với rủi ro pháp lý, thủ tục hành chính.
Đặc biệt, đề xuất phương án quản lý theo hạn ngạch (quota) trong dự thảo sửa đổi làm dấy lên lo ngại về khả năng phát sinh thêm thủ tục hành chính, gây gia tăng gánh nặng tuân thủ.
Việc thực hiện truy xuất nguồn gốc vẫn còn nhiều bất cập như: quy định về kích cỡ khai thác tối thiểu, cấm trộn lẫn nguyên liệu khai thác trong nước với nguyên liệu nhập khẩu, yêu cầu về hóa đơn, chứng từ, hồ sơ tàu cá... Những yếu tố này khiến các doanh nghiệp buộc phải gia tăng nhập khẩu cá ngừ nguyên liệu, làm giảm tỷ lệ sử dụng nguyên liệu trong nước – yếu tố then chốt để hưởng ưu đãi thuế quan từ Hiệp định EVFTA.
Bên cạnh đó, hạn ngạch miễn thuế đối với cá ngừ chế biến và đóng hộp vào EU theo EVFTA (11.500 tấn/năm) thường được sử dụng hết chỉ trong vòng 4–5 tháng đầu năm. Sau khi vượt hạn ngạch, doanh nghiệp phải chịu thuế MFN cao, làm giảm sức cạnh tranh và nguy cơ mất đơn hàng.
Giai đoạn đầu sau khi EVFTA có hiệu lực, tỷ lệ sản phẩm cá ngừ đủ điều kiện được hưởng ưu đãi thuế theo xuất xứ Việt Nam chiếm tới 80–100%. Tuy nhiên, hai năm gần đây, tỷ lệ này đã giảm mạnh, xuống chỉ còn khoảng 30%, nguyên nhân là do các lô hàng không đủ hồ sơ chứng minh nguồn gốc theo quy định xuất xứ thuần túy trong hiệp định.
Theo VASEP, nếu không tháo gỡ các bất cập liên quan đến quy định trong Nghị định 37/2024/NĐ-CP, tỷ lệ cá ngừ có xuất xứ Việt Nam thấp sẽ không chỉ ảnh hưởng đến thu nhập của ngư dân và doanh nghiệp, mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình đàm phán lại hạn ngạch với EU sau năm 2027.
![]() |
Xuất khẩu cá ngừ Việt Nam khó cán đích trong năm 2025 |
Để kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp và ngành cá ngừ, bà Lê Hằng – Phó Tổng Thư ký VASEP kiến nghị: cần khẩn trương sửa đổi Nghị định 37 theo hướng tháo gỡ vướng mắc trước mùa khai thác cá ngừ; đồng thời, tiếp tục đơn giản hóa thủ tục truy xuất nguồn gốc và chứng nhận khai thác thủy sản.
Việc số hóa quy trình xác nhận, giảm sự phụ thuộc vào thủ tục giấy tờ, cũng như cải thiện việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ là các giải pháp cần thiết nhằm tăng tỷ lệ sản phẩm được hưởng ưu đãi thuế từ EU.
Nếu không có những hành động kịp thời và quyết liệt, ngành cá ngừ Việt Nam sẽ đứng trước nguy cơ mất lợi thế cạnh tranh vào tay các đối thủ như Thái Lan, Indonesia hay Ecuador. Việc gỡ bỏ rào cản thể chế chính là chìa khóa để cá ngừ Việt Nam bứt phá, giữ vững thị phần và nâng tầm vị thế trên thị trường quốc tế.