Ngày 10/12, Diễn đàn Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ 2025 với chủ đề “30 năm hợp tác kinh tế, thương mại – Vượt qua thách thức, bước vào kỷ nguyên mới” diễn ra tại TP.HCM không chỉ gợi mở bức tranh 30 năm hợp tác, mà quan trọng hơn là chỉ ra những “điểm nghẽn” mới xuất hiện. Khi 75% xuất khẩu sang Mỹ thuộc về khối doanh nghiệp FDI, bao gồm những tên tuổi toàn cầu như Apple, Intel hay Nike, bất kỳ động thái tăng thuế, điều chỉnh phòng vệ hoặc thay đổi chính sách từ Washington đều có thể khiến môi trường đầu tư và sản xuất tại Việt Nam chịu tác động dây chuyền.
![]() |
| Ông Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Hoa Kỳ phát biểu tại diễn đàn |
Ông Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Hoa Kỳ cho rằng, 30 năm sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ, đến nay đã đạt nhiều thành tựu cả về chính trị, kinh tế. Thành tựu đó có được từ quá trình nỗ lực rất nhiều của cả hai phía, không chỉ từ hai chính phủ Việt Nam- Hoa Kỳ, mà còn là sự nỗ lực cùng tham gia của cộng đồng doanh nghiệp, các chuyên gia, các nhà tư vấn. Năm 1994, thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ chưa đến 0,5 tỷ USD và đến năm 2024 con số này là 149,6 tỷ USD, tăng gần 300 lần.
Điều đáng chú ý là trong bối cảnh Hoa Kỳ tăng cường áp dụng kết hợp các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam lại nằm đúng vào nhóm dễ tổn thương nhất. Đồ gỗ – lĩnh vực mà Việt Nam là nhà xuất khẩu lớn nhất châu Á sang Mỹ – có nguy cơ mất thị phần nếu thuế nhập khẩu duy trì ở mức cao. Dệt may và da giày phải chịu áp lực cạnh tranh từ những thị trường có chi phí lao động thấp hơn như Bangladesh và Ấn Độ. Điện tử đối mặt khả năng dịch chuyển nhà máy FDI khi các tập đoàn đa quốc gia tái tối ưu hóa chuỗi cung ứng. Thủy sản đứng trước vòng xoáy điều tra, áp thuế, tranh chấp giá cả và cạnh tranh bằng chi phí.
Thực tế này đặt ra một nghịch lý: quan hệ thương mại càng mở rộng thì yêu cầu về minh bạch, truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn sản xuất càng siết chặt, đến mức chính những doanh nghiệp từng tăng trưởng mạnh nhờ Mỹ lại có thể bị chặn lại bởi những quy định mới. Và đây không còn là câu chuyện “làm đúng để được xuất khẩu”, mà là “làm tốt hơn để tiếp tục tồn tại trong chuỗi cung ứng toàn cầu”.
Điểm chung trong nhiều ý kiến tại diễn đàn là doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước một ngưỡng chuyển dịch tư duy buộc phải bước qua. Từ “gia công – xuất khẩu” sang “sản xuất có trách nhiệm”; từ “tối ưu chi phí” sang “tối ưu tiêu chuẩn”; từ “dựa vào ưu đãi thuế” sang “dựa vào năng lực chứng minh nguồn gốc và minh bạch chuỗi cung ứng”. Nếu trước đây, một doanh nghiệp có thể phát triển nhờ chi phí lao động thấp, thì nay con đường tăng trưởng phụ thuộc vào năng lực quản trị rủi ro, tiêu chuẩn ESG, và khả năng dự báo biến động chính sách.
Đây cũng là lúc Việt Nam phải đối diện với bài toán tự chủ trong chuỗi cung ứng. Khi nguyên liệu nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn, việc chứng minh xuất xứ trở thành gánh nặng. Khi doanh nghiệp phụ thuộc quá nhiều vào thị trường Mỹ, bất kỳ thay đổi thuế quan đều tạo hiệu ứng lan tỏa đến nông dân, công nhân và toàn bộ chuỗi sản xuất đằng sau đó. Điều này cho thấy yêu cầu tái cấu trúc thị trường, mở rộng hướng đi sang các thị trường mới, không phải chỉ để tăng xuất khẩu mà còn để giảm thiểu rủi ro chiến lược.
![]() |
| Bà Virginia Foote, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ tại Hà Nội (AmCham Hà Nội) phát biểu tại diễn đàn |
Bà Virginia Foote, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ tại Hà Nội (AmCham Hà Nội) cho biết, thu hút dòng vốn đầu tư từ Hoa Kỳ vào Việt Nam trong giai đoạn đầu sau bỏ cấm vận cho đến nay đã có những thành công nhất định. Thương mại quốc tế, trong đó có thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ hiện nay vẫn khá ổn nhưng khó có thể dự đoán được tương lai. Tuy nhiên, Hoa Kỳ luôn là đối tác xuất nhập khẩu quan trọng của Việt Nam.
Chính sách thuế hiện đang là điểm nghẽn trong xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ và chính sách này vẫn còn có sự thay đổi. Doanh nghiệp Việt Nam cần phải nắm được thông tin mức thuế nào sẽ áp dụng cho ngành sản xuất của mình, mặt hàng xuất khẩu của mình; tiêu chuẩn hàng hóa vào thị trường Hoa Kỳ, đặc biệt là quy tắc xuất xứ; hiểu được chuỗi cung ứng mà mình đang tham gia để đàm phán bên bán hay bên mua sẽ chịu thuế và chịu như thế nào, bà Virginia Foote cụ thể vấn đề.
Trong bối cảnh thế giới tái định hình chuỗi cung ứng, Việt Nam cũng đứng trước cơ hội không nhỏ. Nhưng cơ hội chỉ đến với những doanh nghiệp có khả năng chuyển mình nhanh, minh bạch và sáng tạo. Diễn đàn thương mại lần này vì vậy không đơn thuần là nơi nhìn lại một hành trình 30 năm, mà là lời cảnh báo và cũng là lời nhắc nhở: nếu không tự nâng cấp, doanh nghiệp Việt Nam có thể đánh mất lợi thế ngay trên thị trường lớn nhất của mình.
30 năm hợp tác Việt – Mỹ đã chứng minh rằng thương mại là một trong những trụ cột bền vững nhất của quan hệ song phương. Nhưng giai đoạn 30 năm tiếp theo đòi hỏi một tư duy hoàn toàn khác: từ tăng trưởng dựa vào số lượng sang tăng trưởng dựa vào chất lượng; từ phụ thuộc vào thị trường Mỹ sang đa dạng hóa thị trường; từ năng lực sản xuất đơn thuần sang năng lực cạnh tranh toàn diện.
Với vai trò là kênh trao đổi và đối thoại chính sách quan trọng, Diễn đàn Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ 2025 góp phần làm sâu sắc nhận thức chung, thúc đẩy kết nối và hợp tác thực chất giữa các bên liên quan; qua đó hỗ trợ quá trình thích ứng chủ động trước những điều chỉnh chính sách và thách thức mới, đồng thời mở rộng dư địa hợp tác, củng cố nền tảng cho quan hệ kinh tế – thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ phát triển ổn định, bền vững và cùng có lợi trong giai đoạn tiếp theo