Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) vừa có Công văn số 31/CV-VASEP gửi tới các bộ, ngành: Tài chính, Tư pháp, Kế hoạch và Đầu tư; Hội đồng Tư vấn Cải cách Thủ tục Hành chính và Tổng cục Thuế góp ý về dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng sửa đổi và dự thảo Nghị định hướng dẫn chi tiết Luật Thuế giá trị gia tăng sửa đổi.
VASEP nêu vấn đề tại Khoản 1, Điều 9 của Dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng sửa đổi, tất cả các dịch vụ xuất khẩu sẽ áp dụng thuế giá trị gia tăng 10% ngoại trừ một số dịch vụ được quy định chi tiết tại khoản này.
Quy định trên chưa hợp lý bởi theo thông lệ quốc tế, các quốc gia khác đều áp thuế suất 0% cho dịch vụ xuất khẩu và cho phép doanh nghiệp được hoàn thuế đầu vào.
Đồng thời, các nước này thường áp dụng nguyên tắc doanh nghiệp tự khai, tự chịu trách nhiệm, cơ quan thuế thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm.
Bên cạnh đó, khi áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với dịch vụ xuất khẩu, các doanh nghiệp sản xuất hàng nội địa vẫn được khấu trừ. Thậm chí, thủ tục hoàn thuế sẽ càng đơn giản hơn vì được khấu trừ cho dịch vụ xuất khẩu.
Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp chế xuất là doanh nghiệp không thuộc đối tượng kê khai thuế, họ lại không có cơ chế được hoàn thuế.
Như vậy, việc áp dụng thuế đối với dịch vụ xuất khẩu gây ra sự bất bình đẳng giữa doanh nghiệp chế xuất và doanh nghiệp sản xuất hàng nội địa bởi vì cùng là doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xuất khẩu nhưng một bên được khấu trừ thuế đối với dịch vụ xuất khẩu, một bên không được khấu trừ. Cùng đó, khi áp dụng đối với doanh nghiệp chế xuất là sai với nguyên tắc thu thuế và đối tượng chịu thuế.
Theo phân tích của VASEP, đối với các doanh nghiệp chế xuất, toàn bộ khoản thuế phải nộp sẽ tính vào chi phí. Điều này dẫn đến giá thành của sản phẩm xuất khẩu bị đội lên rất nhiều.
Chính sách thuế bất lợi sẽ khiến doanh nghiệp chế xuất tại Việt Nam bị giảm sức cạnh tranh so với các đối thủ ở các quốc gia khác, giảm kim ngạch xuất khẩu, từ đó không giữ chân được nhà đầu tư hiện tại cũng như không thu hút được nhà đầu tư mới.
Hơn nữa, Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế định hướng xuất khẩu. Từ giai đoạn đổi mới đến nay, xuất khẩu hàng hóa luôn là động lực tăng trưởng quan trọng của đất nước, với tốc độ tăng trung bình gần 15%/năm.
Kết quả này có được một phần nhờ vào đơn giản hóa thủ tục hải quan đối doanh nghiệp chế xuất bằng việc xem doanh nghiệp chế xuất là khu phi thuế quan, giúp doanh nghiệp giảm bớt quy trình, thủ tục hải quan, doanh nghiệp thực hiện xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ khối lượng lớn mộtcách nhanh chóng.
Việc áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với dịch vụ xuất khẩu không những giảm sự cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp chế xuất mà còn tạo thêm nhiều thủ tục về thuế cho doanh nghiệp.
Điều này đi ngược lại với chính sách khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu và chính sách nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia của Chính phủ.
Trong công văn, VASEP cũng nêu bất cập đối với lĩnh vực xuất khẩu dịch vụ, Luật Thuế giá trị gia tăng hiện hành cho phép hưởng thuế suất 0%. Nhưng trên thực tế phản ánh, nhiều doanh nghiệp vẫn thường bị áp mức thuế 10% do cán bộ thuế không phân biệt được đâu là dịch vụ tiêu dùng trong nước, đâu là dịch vụ xuất khẩu.
Cũng xuất phát từ lý do khó khăn trong thực thi này, dự thảo này đã đề xuất không cho phép dịch vụ xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% nữa, thay vào đó áp thuế 10%.
Thời gian qua, để bảo đảm hạch toán riêng giữa doanh thu từ người dùng trong nước và người dùng nước ngoài, doanh nghiệp phải tách sản phẩm thành hai phiên bản để cung cấp cho hai thị trường khác nhau. Tuy nhiên, giải pháp này phát sinh nhiều vấn đề và làm tăng chi phí vận hành, cung cấp sản phẩm của doanh nghiệp.
Trước những bất cập kể trên, VASEP đề nghị giữ nguyên quy định về thuế cho dịch vụ xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% như quy định hiện hành. Đồng thời, kiến nghị Bộ Tài chính hướng dẫn phương pháp phân loại dịch vụ xuất khẩu và dịch vụ tiêu dùng trong nước.
Ngoài vấn đề thuế giá trị gia tăng đối với dịch vụ xuất khẩu, VASEP cũng đề cập tình trạng bất bình đẳng về thuế giá trị gia tăng khi tổ chức sản xuất kinh doanh theo mô hình tập đoàn kinh tế, cụ thể với một doanh nghiệp thực hiện cả hai công đoạn, vừa có cơ sở để sản xuất ra nguyên liệu phục vụ cho nhà máy chế biến, vừa có nhà máy chế biến thì sẽ được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào.
Với doanh nghiệp loại này, khi chuyển sang hình thức tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp này tách thành một công ty chuyên sản xuất nguyên liệu và một công ty chuyên chế biến thành phẩm phục vụ tiêu dùng.
Lúc này, công ty thứ nhất không được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào vì sản phẩm đầu ra thuộc diện không chịu thuế. Công ty thứ hai có đầu vào là nguyên liệu thuộc diện không chịu thuế nên không được khấu trừ khi nộp thuế đầu ra. Hệ quả là, khi chuyển sang mô hình tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp phải nộp thuế nhiều hơn, làm giảm động lực để các doanh nghiệp tổ chức theo mô hình tập đoàn kinh tế.
“Kết quả này có được không thể không kể đến vai trò của việc đơn giản hóa thủ tục hải quan đối doanh nghiệp chế xuất bằng việc xem doanh nghiệp chế xuất là khu phi thuế quan, giúp doanh nghiệp giảm bớt quy trình, thủ tục hải quan, doanh nghiệp thực hiện xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ với khối lượng lớn nhanh chóng. Đây là cơ chế ưu việt, cạnh tranh và rất tốt của Chính phủ Việt Nam về thu hút đầu tư so với nước khác. Do đó, áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với dịch vụ xuất khẩu không những giảm sự cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp chế xuất mà còn tạo thêm nhiều thủ tục về thuế cho doanh nghiệp chế xuất. Điều này cũng đi ngược lại với chính sách khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu và chính sách nâng cao năng lực cạnh tranh Quốc gia của Chính phủ”, VASEP nêu rõ.
Trước những bất cập kể trên, VASEP đề nghị giữ nguyên quy định về thuế cho dịch vụ xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% như quy định hiện hành. Đồng thời, giao cho Bộ Tài chính hướng dẫn phương pháp phân loại dịch vụ xuất khẩu và dịch vụ tiêu dùng trong nước.
P.V (t/h)