Đầu tư theo hình thức đối tác công tư sẽ cung cấp nguồn vốn đáng kể cho việc phát triển hạ tầng giao thông. Nhất là, trong việc xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông đòi hỏi một lượng lớn vốn đầu tư, vượt qua khả năng tài chính của ngân sách nhà nước. Bằng cách thu hút đầu tư từ các nhà đầu tư tư nhân thông qua hình thức PPP, Chính phủ có thể tiếp cận được nguồn vốn kinh doanh và kỹ năng quản lý từ các đối tác tư nhân, giúp tăng cường khả năng đầu tư và nâng cao năng lực quản lý dự án.
Theo đó, PPP tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Các đối tác tư nhân thường có kinh nghiệm và kiến thức trong việc xây dựng và vận hành hạ tầng giao thông hiện đại. Qua việc hợp tác với những đối tác này, Việt Nam có cơ hội tiếp cận các công nghệ tiên tiến và phương pháp quản lý hiệu quả, từ đó nâng cao chất lượng và hiệu suất của hạ tầng giao thông.
Ngoài ra, PPP thúc đẩy sự đổi mới trong quản lý và khai thác hạ tầng giao thông. Trong quá trình hợp tác, các đối tác tư nhân thường đảm nhận vai trò quản lý và vận hành các dự án hạ tầng. Việc này không chỉ giúp nâng cao tính hiệu quả và hiệu suất của hạ tầng, mà còn thúc đẩy sự đổi mới trong quản lý và khai thác. Các công nghệ mới, phương pháp vận hành tiên tiến có thể được áp dụng, giúp tối ưu hóa việc điều hành và nâng cao trải nghiệm của người dùng.
Như vậy, PPP đóng góp vào sự phát triển bền vững của hạ tầng giao thông. Việc hợp tác công tư không chỉ giúp xây dựng các dự án mới mà còn đảm bảo việc duy trì và bảo trì hạ tầng hiện có. Điều này quan trọng để đảm bảo rằng hạ tầng giao thông được duy trì trong tình trạng tốt, đáp ứng nhu cầu của người dân và doanh nghiệp. Ngoài viết sẽ không được hoàn thành.
Nhận định về phương án hiện thực hoá các mục tiêu xây dựng hạ tầng giao thông của Chính phủ, ông Hồ Nghĩa Dũng – nguyên Bộ trưởng Bộ GTVT cho rằng, đầu tư hạ tầng giao thông cần một số vốn khổng lồ, nhà nước mạnh đến đâu cũng không thể “kham” hết được bằng đầu tư công. Do đó, nhà nước đã kêu gọi khối tư nhân tham gia đầu tư bằng phương thức PPP để phát triển hạ tầng công, dịch vụ công phục vụ nhân dân.
“Tuy nhiên, tư nhân dù mạnh đến mấy cũng không thể nào “đơn thương độc mã” hợp tác với nhà nước để làm nên công trình mà sẽ đóng vai trò là “leader” để tập hợp, kêu gọi các nhà đầu tư khác để tham gia đầu tư. Mô hình PPP++ là một sáng tạo để từ đó tạo ra nguồn lực đủ mạnh, cùng nhau thực hiện dịch vụ công. Đơn vị “leader” phải có đủ năng lực tài chính, con người, có thương hiệu và đặc biệt là năng lực quản trị thì mới có thể thu hút các nhà đầu tư khác. Một đơn vị hội tụ đủ các yếu tố để tập hợp, dẫn dắt được các nhà đầu tư khác để thực hiện thành công các dự án”, ông Hồ Nghĩa Dũng nói.
Tại Việt Nam, mô hình đầu tư theo phương thức PPP bắt đầu được thực hiện từ năm 1997 khi Chính phủ ban hành Nghị định 77-CP về quy chế đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT áp dụng cho đầu tư trong nước. Qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi để từng bước tiệm cận với thông lệ quốc tế, hiện hoạt động PPP và nội dung lựa chọn nhà đầu tư PPP được quy định tại Nghị định số 63/2018/NĐ-CP và Luật Đấu thầu, Nghị định số 30/2015/NĐ-CP.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các nghị định này đã quy định chi tiết, chặt chẽ về trình tự chuẩn bị dự án (lập, thẩm định, phê duyệt báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo khả thi); quy định chặt chẽ về công khai thông tin dự án, trong đó nhấn mạnh công tác tham vấn ý kiến cộng đồng (thông qua một số tổ chức, nhóm đối tượng chịu tác động) trong giai đoạn chuẩn bị dự án và việc công khai thông tin cơ bản của hợp đồng sau khi ký kết; quy định hạn chế các trường hợp được áp dụng chỉ định nhà đầu tư (được khắc phục từ Luật Đấu thầu năm 2013 và Nghị định số 30/2015/NĐ-CP).
Nhân Hà