Thứ ba 01/07/2025 08:38
Hotline: 024.355.63.010
Kinh doanh

Những rủi ro gì đi kèm với chính sách nới lỏng tiền tệ hiện tại?

14/08/2021 11:57
Triển vọng kinh tế trong tương lai vẫn còn nhiều rủi ro, do đó có thể hiểu được tại sao Ngân hàng Trung ương lại chần chừ trong quyết định sẽ thắt chặt chính sách tiền tệ hiện tại trừ khi các số liệu như lạm phát được duy trì ổn định ở mức cao. Ở chi

Tiến sĩ Raghuram Rajan - Thống đốc thứ 23 của Ngân hàng Trung Ương Ấn Độ
Tiến sĩ Raghuram Rajan - Thống đốc thứ 23 của Ngân hàng Trung Ương Ấn Độ.

Chỉ số lạm phát ở Mỹ đã tăng vọt trong những tháng gần đây. Tình trạng thiếu hụt lao động đang là vấn đề lớn tại Mỹ. Trong một cuộc khảo sát gần đây, 46% chủ doanh nghiệp nhỏ cho biết họ không thể tìm được công nhân để làm việc cho các vị trí của mình và 39% thực cho biết họ đã phải tăng lương cho nhân viên của họ. Nhưng, tại thời điểm viết bài này, lợi suất Trái phiếu Kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm là 1.24%, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ lạm phát hòa vốn (breakeven inflation rate) trong 10 năm là 2.4%. Đồng thời, thị trường chứng khoán đang giao dịch ở mức cao nhất lịch sử.

Tại sao lợi suất Trái phiếu Kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm đang ở mức thấp như hiện nay? Với mức lợi suất thấp như vậy, có thể hiểu rằng lãi suất thực được kỳ vọng sẽ nằm ở mức âm trong thập kỷ tới. Liệu dự đoán đó có hợp lý hay không? Có lẽ sự lan rộng của biến thể COVID-19 Delta sẽ khiến các nước phát triển sẽ phải tiến hành các chiến dịch giãn cách mới; không chỉ ở các nền kinh tế phát triển, các thị trường mới nổi cũng sẽ chịu những tác động có thể còn tiêu cực hơn nữa nếu dịch bệnh tiếp tục kéo dài. Có lẽ nhiều biến thể nguy hiểm hơn sẽ xuất hiện, hay các cuộc đàm phán về gói kích thích kinh tế tại Quốc hội sẽ đổ vỡ và cũng có thể dự luật cơ sở hạ tầng của lưỡng đảng sẽ không được thông qua. Tuy nhiên, với những giả định trên lại không thể giải thích cho sự tăng trưởng ấn tượng của thị trường chứng khoán và tỷ lệ lạm phát hòa vốn cũng tăng nhanh liên tục trong thời gian qua.

Một yếu tố giải thích cho sự gia tăng của giá cổ phiếu và trái phiếu (do đó làm giảm lợi tức trái phiếu) có thể là việc các nhà quản lý quỹ luôn tìm kiếm mức lợi tức cao cho mình, quá trình này có sự đóng góp không nhỏ bởi dòng tiền dồi dào được Ngân hàng Trung ương bơm ra liên tục qua các chính sách mua trái phiếu của mình. Điều này không chỉ giải thích tại sao giá của cổ phiếu, trái phiếu đều tăng mà còn lý giải cho đà bứt phá của tiền điện tử và bất động sản.

Đối với những người theo phong cách thận trọng trong định giá tài sản, thông báo của Chủ tịch Fed Jerome Powell vào tuần trước là một thông tin vui, khi ông cho rằng, nền kinh tế đã đạt được bước tiến nhất định mà Fed từ bây giờ có thể nghiêm túc xem xét đến quyết định dừng chương trình mua trái phiếu hàng tháng trị giá 120 tỷ USD. Giảm tốc độ và tiến tới dừng hẳn chương trình mua trái phiếu là bước đầu tiên hướng tới bình thường hóa chính sách tiền tệ. Bản thân điều này cũng sẽ giúp giảm bớt áp lực chỉ tiêu lợi nhuận cho các nhà quản lý quỹ trong môi trường lãi suất đang rất thấp hiện tại.

Tuy nhiên, khởi đầu của quá trình thắt chặt chính sách tiền tệ sẽ không làm hài lòng tất cả mọi người. Một số nhà kinh tế cho rằng sẽ xuất hiện nhiều hệ quả lớn nếu Ngân hàng Trung ương giảm tốc độ mua trái phiếu trước khi đảm bảo chắc chắn rằng lạm phát hiện tại không phải là lạm phát tạm thời (transitory inflation). Tôi cho rằng quan điểm một khi nhìn thấy lạm phát tăng cao thì đã là quá muộn để có thể kiểm soát được nó. Hai thập kỷ lạm phát thấp liên tục đã thuyết phục nhiều ngân hàng trung ương rằng họ có thể kiên nhẫn chờ đợi thời cơ phù hợp hơn để theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt.

Trong khi nợ công tăng vọt thì chi phí lãi vay của chính phủ vẫn ở mức thấp và thậm chí đã giảm xuống so với tỷ trọng GDP ở một số quốc gia trong hai thập kỷ qua. Do đó, nhiều chuyên gia kinh tế không cho rằng nợ chính phủ đang ở mức nguy hiểm. Tuy vậy, điều gì sẽ xảy ra nếu lãi suất bắt đầu tăng mạnh và lạm phát không được kiểm soát? Nếu nợ chính phủ ở mức khoảng 125% GDP thì mỗi lần tăng lãi suất theo điểm phần trăm (percentage-point) sẽ tạo ra mức tăng thâm hụt tài khóa hàng năm là 1.25 điểm phần trăm so với tỷ trọng của GDP. Với việc lãi suất thông thường sẽ tăng vài điểm phần trăm trong một chu kỳ kinh doanh, nợ chính phủ có thể nhanh chóng phải hứng chịu áp lực lớn do chi phí lãi vay sẽ gia tăng tương ứng với lãi suất.

Các chuyên gia kinh tế khác thì lại cho rằng: “Không phải tất cả các khoản nợ đều phải được thanh toán trong ngắn hạn. Chỉ cần nhìn vào nước Anh, nơi có thời hạn đáo hạn trung bình là khoảng 15 năm”. Phản bác này là có cơ sở, nếu thời gian đáo hạn nợ được trải đều thì chỉ có khoảng một phần mười lăm tổng nợ của Vương quốc Anh cần phải được tái cấp vốn mỗi năm. Với lẽ đó, các nhà chức trách có cho mình nhiều thời gian để phản ứng với sự gia tăng của lãi suất.

Nhưng trường hợp của Anh không mang nhiều tính đại diện. Thời gian đáo hạn trung bình đối với nợ chính phủ thấp hơn nhiều ở các nước khác, đặc biệt là Mỹ, với chỉ trung bình 5.8 năm. Ngoài ra, dùng cách tính thời gian đáo hạn trung bình có thể không hợp lý khi mà chỉ số này được có thể bị tác động đáng kể bởi một số loại trái phiếu dài hạn. Do đó, để có thể phản ánh chính xác hơn thời hạn đáo hạn, thước đo trung vị (median) được tin dùng và từ đó giúp chúng ta đánh giá được rủi ro liên quan tới những thay đổi lãi suất trong thời gian tới.

Một ảnh hưởng cũng rất đáng để đề cập là khi Ngân hàng Trung ương tích cực đẩy mạnh chương trình mua lại trái phiếu sẽ làm giảm thời hạn đáo hạn của tổng nợ. Lý do là tại vì Ngân hàng Trung ương tài trợ khoản tiền mua trái phiếu 5-năm bằng khoản vay ngân hàng thương mại với lãi suất qua đêm. Nhìn tổng thể bảng cân đối kế toán của Chính phủ và Ngân hàng Trung ương, chính phủ thực chất đã tráo đổi khoản nợ 5 năm thành nợ qua đêm. Qua đó, làm ngắn đáng kể thời hạn đáo hạn nợ vay của chính phủ và việc giảm thời hạn đáo hạn sẽ kéo theo gia tăng rủi ro khi có sự thay đổi về lãi suất trong tương lai.

Thực tế thì nó có ảnh hưởng lớn hay không? Quay lại với ví dụ ở nước Anh, với thời hạn đáo hạn trung bình 15 năm và trung vị ở mức 11 năm. Giả sử mức trung vị này giảm xuống chỉ còn 4 năm sau chương trình mua lại trái phiếu của chính phủ. Một điểm phần trăm tăng lãi suất sẽ làm tăng chi phí lãi vay của nền kinh tế này khoảng 0.8% GDP. Và đương nhiên, lãi suất thực tế sẽ không chỉ dừng ở mức một điểm phần trăm mà chúng ta giả sử ở trên.

Tình hình khó khăn hơn ở Mỹ, khi mà thời gian đáo hạn nợ ngắn hơn nhiều so với của Anh, ngoài ra, có tới 1/4 tổng nợ vay của Mỹ thuộc về Fed. Có thể thấy rằng, duy trì tốc độ mua trái phiếu sẽ tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho kinh tế Mỹ.

Tiến sĩ Raghuram Rajan - Thống đốc thứ 23 của Ngân hàng Trung Ương Ấn Độ

Bài liên quan
Tin bài khác
Doanh nghiệp nhỏ và vừa: Cần thích ứng nhanh với thị trường phát thải

Doanh nghiệp nhỏ và vừa: Cần thích ứng nhanh với thị trường phát thải

Trong bối cảnh xu hướng giảm phát thải trở thành tiêu chuẩn bắt buộc tại nhiều thị trường xuất khẩu lớn, doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước buộc phải thay đổi nhanh mô hình sản xuất và quản trị carbon. Việc chậm thích ứng không chỉ khiến mất đơn hàng, mà còn đẩy doanh nghiệp ra khỏi chuỗi cung ứng toàn cầu.
Doanh nghiệp ngành nhôm: "Nâng cấp" bản thân để tránh rủi ro xuất khẩu

Doanh nghiệp ngành nhôm: "Nâng cấp" bản thân để tránh rủi ro xuất khẩu

Trước xu hướng hội nhập đa phương và xu thế bảo hộ nền sản xuất của các quốc gia hiện nay, thời gian qua, ngành nhôm liên tiếp đối mặt với các cuộc điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài, nhất là thị trường Mỹ
Doanh nghiệp ngành nhôm Việt Nam: Cùng nhận diện cơ hội và thách thức

Doanh nghiệp ngành nhôm Việt Nam: Cùng nhận diện cơ hội và thách thức

Nhằm tạo diễn đàn để cùng thảo luận tìm ra hướng đi mới cho ngành nhôm; đồng thời tạo kết nối cho các doanh nghiệp, sáng ngày 28/6, Hiệp hội Nhôm Việt Nam tổ chức Diễn đàn doanh nghiệp ngành nhôm Việt Nam 2025 với chủ đề “Nhận diện cơ hội và thách thức của ngành nhôm”.
Thuế - Trách nhiệm không thể bỏ qua trong kinh doanh số

Thuế - Trách nhiệm không thể bỏ qua trong kinh doanh số

Thương mại điện tử bùng nổ mở ra cơ hội kinh doanh chưa từng có, nhưng cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết về tuân thủ nghĩa vụ thuế. Trong kỷ nguyên số, mọi hành vi né tránh nghĩa vụ tài chính với Nhà nước không chỉ gây thất thu ngân sách mà còn tạo ra sự bất bình đẳng trên thị trường.
Doanh nghiệp sử dụng năng lượng như thế nào giúp tiết kiệm và hiệu quả?

Doanh nghiệp sử dụng năng lượng như thế nào giúp tiết kiệm và hiệu quả?

Trong bối cảnh toàn cầu đang chuyển dịch mạnh mẽ sang mô hình phát triển xanh và bền vững, Việt Nam không đứng ngoài xu hướng đó. Góp phần vào thành quả đó có sự đóng góp quan trọng của các doanh nghiệp.
Ông Đinh Xuân Dương: "Doanh nghiệp Việt Nam không thua vì sản phẩm tệ, mà họ thua vì thị trường mất niềm tin"

Ông Đinh Xuân Dương: "Doanh nghiệp Việt Nam không thua vì sản phẩm tệ, mà họ thua vì thị trường mất niềm tin"

Khởi nghiệp tại Việt Nam đang chứng kiến một nghịch lý gai góc: Số lượng doanh nghiệp gia nhập và rút lui gần như tương đương. Dưới bề nổi của “làn sóng khởi nghiệp” là một mặt trận sinh tồn khốc liệt, nơi chỉ những ai đủ bản lĩnh kiểm soát chi phí và thích nghi mới trụ lại.
Vietnam Airlines "cất cánh" với lãi khủng 5.000 tỷ đồng

Vietnam Airlines "cất cánh" với lãi khủng 5.000 tỷ đồng

Hãng hàng không Vietnam Airlines bứt phá ngoạn mục nửa đầu 2025, ước lãi kỷ lục. Kế hoạch bay quốc tế mở rộng, đội tàu bay mới hứa hẹn tương lai sáng lạn.
CEO Jettainer: AI và vai trò không thể thay thế của con người trong quản lý ULD

CEO Jettainer: AI và vai trò không thể thay thế của con người trong quản lý ULD

Theo Tiến sĩ Jan-Wilhelm Breithaupt – Giám đốc điều hành Jettainer, giá trị cốt lõi của số hóa và trí tuệ nhân tạo (AI) không nằm ở việc loại bỏ con người khỏi quy trình, mà là cung cấp cho họ những công cụ sắc bén hơn và cái nhìn toàn diện hơn.
Gemadept sẽ mua vào cổ phiếu nếu thị giá dưới 1,5 lần giá sổ sách

Gemadept sẽ mua vào cổ phiếu nếu thị giá dưới 1,5 lần giá sổ sách

Lãnh đạo Gemadept cho biết có kế hoạch mua lại cổ phiếu công ty khi giá giảm xuống mức 1,5 lần giá trị sổ sách, đây là đảm bảo quyền lợi cho cổ đông.
Định vị gạo Việt trên bàn ăn thế giới: Doanh nghiệp là lực đẩy của thương hiệu quốc gia

Định vị gạo Việt trên bàn ăn thế giới: Doanh nghiệp là lực đẩy của thương hiệu quốc gia

Giữa những biến động khó lường của thị trường toàn cầu, ngành gạo Việt Nam vẫn giữ được nhịp tăng trưởng xuất khẩu ổn định, thậm chí đang vươn lên định vị mình ở phân khúc cao cấp. Phía sau kết quả ấy là nỗ lực bền bỉ của các doanh nghiệp, những người tiên phong trong việc thay đổi tư duy, nâng cấp chất lượng, xây dựng thương hiệu và đón đầu xu hướng “gạo xanh”.
Khởi nghiệp xanh lựa chọn của nhiều người trẻ

Khởi nghiệp xanh lựa chọn của nhiều người trẻ

Theo bà Vũ Kim Hạnh – Chủ tịch Hội Doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao, khởi nghiệp xanh không chỉ là con đường khởi nghiệp, mà còn là cách để người trẻ phục hồi, tái tạo các giá trị văn hóa, nông nghiệp và môi trường bản địa.
Nhiều doanh nghiệp chấp nhận “hy sinh ngắn hạn” để khai mở lợi thế dài hạn với AI

Nhiều doanh nghiệp chấp nhận “hy sinh ngắn hạn” để khai mở lợi thế dài hạn với AI

Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam đang lựa chọn chiến lược đầu tư vào trí tuệ nhân tạo (AI) bất chấp những rủi ro ngắn hạn về doanh thu, nhằm chuẩn bị nền tảng công nghệ vững chắc cho cuộc cạnh tranh dài hạn.
Doanh nghiệp New Zealand tăng cường hợp tác với các nhà bán lẻ Việt

Doanh nghiệp New Zealand tăng cường hợp tác với các nhà bán lẻ Việt

Hàng loạt nông sản của New Zealand sẽ được bán tới người tiêu dùng Việt Nam thông qua hệ thống chuỗi siêu thị Kingfoodmart, như: Táo, kiwi, bơ sữa, rượu vang…
Hộ kinh doanh giữa vòng xoáy hàng giả và thuế: Cần chính sách “may đo”

Hộ kinh doanh giữa vòng xoáy hàng giả và thuế: Cần chính sách “may đo”

Trước làn sóng chuyển đổi số và yêu cầu pháp lý ngày càng siết chặt, hàng triệu hộ kinh doanh, vốn là trụ cột âm thầm nhưng bền bỉ của nền kinh tế đang đối mặt với những thách thức chưa từng có. Từ bài toán hóa đơn điện tử đến áp lực cạnh tranh không lành mạnh với hàng giả, hàng nhái... Cộng đồng này đang rất cần những chính sách “may đo” thay vì khuôn mẫu áp đặt.
Siết chặt kiểm soát nhập khẩu thép cán nóng để ngăn chặn hành vi lẩn tránh thuế

Siết chặt kiểm soát nhập khẩu thép cán nóng để ngăn chặn hành vi lẩn tránh thuế

Trước dấu hiệu gia tăng nhập khẩu các sản phẩm thép cán nóng có chiều rộng lớn hơn 1.880 mm nhằm né tránh thuế chống bán phá giá, Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương) cho biết sẽ tiếp tục theo dõi sát sao và triển khai đầy đủ các biện pháp cần thiết để bảo vệ lợi ích hợp pháp của ngành sản xuất trong nước, trong khuôn khổ pháp luật về phòng vệ thương mại và các cam kết quốc tế.