Các ngân hàng đẩy mạnh cho vay bất động sản và chứng khoán cũng là những ngân hàng ghi nhận tăng trưởng tín dụng ấn tượng trong nửa đầu năm 2025.
SHB và Techcombank dẫn đầu về cho vay bất động sản
Theo báo cáo cập nhật ngành ngân hàng 6 tháng đầu năm 2025 của S&I Ratings, tín dụng toàn hệ thống tăng trưởng tích cực, đạt 9,9% sau 6 tháng đầu năm 2025, mức cao nhất hơn một thập kỷ qua, kể từ năm 2012.
Nhóm ngân hàng cổ phần, đặc biệt là các ngân hàng chuyên cho vay doanh nghiệp tiếp tục là động lực chính, với mức tăng trưởng vượt trội, như: VPBank tăng tín dụng 18,7%, HDBank tăng 15,3%, NamABank tăng 14,7%, MSB tăng 13,5%, SHB tăng 12,9% và MBB tăng 12,3%.
Ngược lại, tốc độ tăng trưởng tín dụng tại khối ngân hàng quốc doanh và một số ngân hàng bán lẻ khiêm tốn hơn: BIDV tăng tín dụng 6,1%, Vietcombank tăng 7,3%, ACB tăng 9,2%, OCB tăng 8,8% và BVB tăng 6,5%.
Xét theo lĩnh vực cho vay, hầu hết các ngành sản xuất, xây dựng và thương mại – dịch vụ đều đóng góp tốt vào mức tăng tín dụng toàn hệ thống.
Cụ thể, dư nợ cho vay thương mại tăng đáng kể so với cùng kỳ, tại MBB tăng 33.000 tỷ đồng, LPBank tăng 22.000 tỷ đồng và VPBank tăng 21.000 tỷ đồng.
Trong khi đó, tỷ trọng giải ngân kinh doanh bất động sản và dịch vụ tài chính chiếm ưu thế ở một số ngân hàng. So với cuối năm 2024, dư nợ cho vay chủ đầu tư bất động sản tại SHB tăng 41.000 tỷ đồng, theo sau Techcombank tăng 40.000 tỷ đồng và MBB tăng 21.000 tỷ đồng.
Cho vay các công ty chứng khoán cũng tăng mạnh, tại NamABank tăng 15.000 tỷ đồng, VPBank tăng 13.000 tỷ đồng, VBB tăng 12.000 tỷ đồng và VIB tăng 11.000 tỷ đồng.
![]() |
Tăng tín dụng theo từng ngân hàng. |
S&I Ratings đánh giá mục tiêu tăng trưởng tín dụng 16% của Chính phủ là khả thi và có thể đạt mức 17 – 18% cả năm nếu nhu cầu vốn duy trì tích cực cùng với đà phục hồi của nền kinh tế. Đặc biệt, một số ngân hàng cổ phần lớn, như: MBB, VPBank và HDBank nhiều khả năng sẽ có tốc độ tăng trưởng vượt trội (25 – 30%) so với toàn ngành trong năm 2025.
Ngân hàng tăng tìm kiếm lợi nhuận ngoài cho vay
Trong bối cảnh đó, lợi nhuận ngành ngân hàng tiếp tục được hỗ trợ tích cực bởi thu nhập ngoài lãi khi tăng 26% theo năm, trong khi thu nhập từ lãi thuần chỉ tăng 8,5% theo năm.
Thu nhập ngoài lãi đến từ các khoản thu từ nợ xấu đã xử lý tăng gấp đôi, tăng 108% theo năm, nhờ thị trường bất động sản phục hồi, giúp thúc đẩy quá trình thu hồi nợ. Nổi bật là CTG thu được 7.800 tỷ đồng, BID thu được 6.300 tỷ đồng, VPB thu được 5.200 tỷ đồng.
Các ngân hàng cũng ghi nhận thu nhập từ giao dịch mua bán chứng khoán tăng mạnh 77% theo năm, đóng góp đáng kể cho lợi nhuận toàn ngành trong quý II/2025.
Nguồn thu từ các mảng dịch vụ cốt lõi tăng khá khiêm tốn, như: thu từ phí tăng 2,9% theo năm, chủ yếu nhờ sự hồi phục nhẹ của bancansurrance. Dù được hỗ trợ bởi tỷ giá USD/VND tăng hơn 3% so với đầu năm, lãi từ kinh doanh ngoại hối chỉ tăng nhẹ 4,8% theo năm do bị hạn chế bởi mức nền cao năm trước.
Thu ngoài lãi được kỳ vọng duy trì đà tăng trưởng và thu từ nợ xấu đã xử lý sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng cho lợi nhuận toàn ngành trong nửa cuối năm 2025. |
Chất lượng tài sản suy giảm ở các ngân hàng nhỏ
Tính đến cuối quý II/2025, chất lượng tài sản toàn ngành nhìn chung cải thiện rõ rệt, trừ một số ngân hàng quy mô nhỏ.
Nợ xấu cũng hạ về mức 2,03%, giảm 12 điểm % theo quý và giảm 20 điểm % theo năm.
Diễn biến tích cực này đến từ 02 yếu tố: hiệu ứng kĩ thuật khi tín dụng tăng mạnh, giúp kéo giảm tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay; hoạt động xử lý nợ xấu được đẩy mạnh, khi xử lý được 37.100 tỷ đồng nợ xấu trong quý II/2025.
Xu hướng cải thiện tập trung ở các ngân hàng cổ phần lớn và vừa, gồm: VPB, SHB, MBB, ACB, TPB và VIB. Ngược lại, một số ngân hàng nhỏ PGB và VAB ghi nhận xu hướng nợ xấu tăng trở lại. Tỷ lệ hình thành nợ xấu tại nhóm này cũng nhích tăng trong quý II/2025, trái ngược với xu hướng giảm khoảng 20 điểm cơ bản ở các nhóm ngân hàng còn lại.
![]() |
So sánh chất lượng tài sản các ngân hàng cuối quý II/2025. |
Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) toàn ngành ổn định quanh 80% trong quý II/2025 – chưa có nhiều biến chuyển, nhưng vẫn thấp hơn giai đoạn 2021 – 2022.
LLR có sự phân hóa rõ nét giữa các ngân hàng, nhóm ngân hàng cổ phần quy mô nhỏ nhìn chung có bộ đệm dự phòng thấp hơn nhiều nhóm ngân hàng quốc doanh. Một số ngân hàng lớn MBB, SHB, VPB đã đẩy mạnh trích lập dự phòng trong bối cảnh chất lượng tài sản cải thiện và thu nhập hoạt động tăng trưởng tốt, MBB tăng trích lập 22% theo năm, SHB tăng 135% theo năm. Ngược lại, PGB và VAB lại giảm trích lập mặc dù nợ xấu tăng.
S&I Ratings nhận thấy áp lực trích lập dự phòng vẫn tiếp diễn khi tỷ lệ bao phủ nợ xấu toàn ngành đang ở mức thấp nhất kể từ năm 2019.
Theo Nghị định 86/2024/NĐ-CP, tài sản bảo đảm là bất động sản nếu quá 02 năm kể từ khi các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền xử lý, sẽ không còn được khấu trừ khi tính dự phòng. Quy định này có thể làm gia tăng chi phí dự phòng, đặc biệt tại những ngân hàng có tỷ lệ nợ nhóm 5 duy trì ở mức cao và kéo dài.
Trong ngắn hạn, S&I Ratings đánh giá nợ xấu toàn ngành nhiều khả năng duy trì đà giảm nhẹ. Tín dụng tăng mạnh tiếp tục góp phần hỗ trợ tỷ lệ nợ xấu giảm, nhờ dư nợ mẫu số tăng. Tuy vậy, trong trung và dài hạn, tăng trưởng tín dụng cao có thể tạo áp lực lên chất lượng tài sản do nợ xấu thường có độ trễ hình thành.
Sức ép lớn khi NIM đang giảm
Biên lãi ròng (NIM) toàn ngành còn 3,18% trong quý II/2025, giảm so với mức 3,31% của quý I/2025 – chạm mức thấp nhất kể từ năm 2018.
![]() |
NIM có khả năng tạo đáy vào cuối năm 2025. |
Sức ép về NIM vẫn hiện hữu chủ yếu đến từ 03 yếu tố chính: Lãi suất cho vay đã giảm 60 điểm so với cuối năm 2024 trước định hướng giữ mặt bằng lãi suất thấp của Ngân hàng Nhà nước để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Chi phí vốn toàn ngành tăng khoảng 25 điểm so với cùng kỳ do các ngân hàng tăng cường huy động kỳ hạn dài để đáp ứng nhu cầu tín dụng.
Khối ngân hàng quốc doanh triển khai nhiều gói cho vay với lãi suất ưu đãi, khiến các ngân hàng cổ phần cũng phải điều chỉnh để duy trì cạnh tranh.
Mặc dù áp lực NIM suy giảm vẫn tiếp diễn, S&I Ratings cho rằng NIM có khả năng tạo đáy vào cuối năm 2025 thời điểm tín dụng thường tăng tốc mạnh nhất, từ đó sẽ hỗ trợ lợi suất cho vay.
Áp lực về nguồn vốn, lãi suất huy động đang có xu hướng tăng
Tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn trên tổng huy động (CASA) toàn ngành phục hồi nhẹ tăng 1,1% theo quý sau khi ghi nhận sụt giảm trong quý trước. Sự cải thiện đi cùng với dư nợ cho vay tăng trưởng tốt và việc một số ngân hàng cổ phần triển khai tính năng “Sinh lời tự động” để thu hút tiền gửi không kỳ hạn.
Khối ngân hàng quốc doanh tiếp tục dẫn đầu với CASA đạt 26,8%, theo sau là nhóm ngân hàng cổ phần lớn (22%), vừa (15%) và nhỏ (7,5%).
S&I Ratings nhận thấy các ngân hàng nhỏ có nền CASA thấp nhất ngành, ghi nhận chi phí vốn tăng mạnh nhất trong quý II/2025, tăng 58 điểm cơ bản so với cùng kỳ, dưới áp lực cạnh tranh gay gắt.
Song song đó, xu hướng phát hành trái phiếu cũng tăng mạnh và trở thành kênh bổ sung nguồn vốn quan trọng. Trong 6 tháng đầu năm, tổng lượng phát hành trái phiếu ngân hàng đạt 193.000 tỷ đồng, gấp 02 lần so với cùng kỳ năm 2024.
Các ngân hàng quốc doanh và ngân hàng cổ phần lớn chiếm ưu thế nhờ lợi thế quy mô, bao gồm Techcombank phát hành 37.000 tỷ đồng trái phiếu, ACB phát hành 28.000 tỷ đồng, VPBank 18.000 tỷ đồng, BIDV 17.000 tỷ đồng và MBB 16.000 tỷ đồng.
S&I Ratings nhận thấy các ngân hàng đã huy động từ kênh trái phiếu với mức lãi suất dao động từ 4,95%–7,65%/năm, cao hơn so với mặt bằng lãi suất huy động tiền gửi kỳ hạn 12 tháng (4,8% – 6%/năm). Điều này đã góp phần làm gia tăng chi phi vốn toàn ngành tăng 25 điểm so với cùng kỳ trong quý II/2025.
Ngoài ra, chênh lệch giữa tăng trưởng huy động và tín dụng thu hẹp đáng kể. Theo thống kê từ 27 ngân hàng S&I Ratings theo dõi, tính đến cuối tháng 6/2025, huy động (bao gồm cả giấy tờ có giá) tăng 10% và tín dụng tăng 10,2% so với đầu năm.
Thanh khoản hệ thống tương đối ổn định trong quý II/2025 nhờ dòng tiền hỗ trợ xuyên suốt từ Ngân hàng Nhà nước qua kênh thị trường mở (OMO).
Tuy vậy, căng thẳng xuất hiện rõ nét vào cuối quý – thời điểm nhu cầu giải ngân tăng tốc, một phần do người dân có xu hướng tăng nắm giữ tiền mặt. Bên cạnh đó, thu ngân sách tăng mạnh vào cuối quý cũng khiến Kho bạc Nhà nước hút lượng tiền lớn ra khỏi hệ thống ngân hàng. Hệ quả là thanh khoản hệ thống gặp áp lực tạm thời vào những ngày cuối quý, lãi suất liên ngân hàng qua đêm (O/N) tăng vọt lên 8,75%/năm.
Chỉ trong 3 ngày cuối tháng 6/2025, Ngân hàng Nhà nước đã bơm ròng khoảng 103.000 tỷ đồng thông qua kênh OMO để hỗ trợ thị trường, đưa khối lượng lưu hành lũy kế đạt 155.000 tỷ đồng – mức cao nhất kể từ năm 2017.
Về xu hướng lãi suất, S&I Ratings nhận thấy áp lực đối với mặt bằng lãi suất huy động đang có xu hướng tăng dần trong nửa cuối năm 2025. Tín dụng dự kiến tiếp tục tăng trưởng mạnh, đòi hỏi các ngân hàng cũng phải tăng cường huy động vốn để đáp ứng, tạo sức ép lên lãi suất huy động. Bên cạnh đó, áp lực lên tỷ giá vẫn hiện hữu trước các biến động bên ngoài khó lường, cho thấy không gian nới lỏng chính sách tiền tệ trong thời gian tới không còn nhiều. |