Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Ngô Lê Văn nhấn mạnh điều này tại chương trình Đối thoại chính sách “Ngoại giao Việt Nam: Tầm nhìn chiến lược và Hợp tác địa phương” vừa diễn ra mới đây tại TP. Hồ Chí Minh do Bộ Ngoại giao phối hợp cùng UBND TP. Hồ Chí Minh tổ chức.
Theo Thứ trưởng Ngô Lê Văn, dự báo đến năm 2030, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều biến động sâu sắc, khó lường; quan hệ giữa các nước lớn đan xen hợp tác và cạnh tranh, trong đó cạnh tranh ngày càng nổi trội. Luật pháp quốc tế, chủ nghĩa đa phương vẫn được coi trọng, song đứng trước nhiều thách thức; an ninh, ổn định và phát triển toàn cầu còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ.
![]() |
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Ngô Lê Văn phát biểu tại buổi Đối thoại chính sách. |
“Bên cạnh đó, kinh tế thế giới đối mặt nhiều rủi ro, trong khi khoa học – công nghệ, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo, phát triển bứt phá, vừa mở ra cơ hội, vừa đặt ra nguy cơ tụt hậu xa hơn nếu chúng ta không kịp thời nắm bắt. Trong bối cảnh ấy, Đảng và Nhà nước ta đặt ra những yêu cầu mới, kỳ vọng ngành Ngoại giao phải chủ động, tích cực, phát huy vai trò tiên phong mạnh mẽ hơn để đối ngoại thực sự là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên” trong công cuộc phát triển và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước vươn lên trong kỷ nguyên mới. Theo đó, đối ngoại của Việt Nam phải tham gia, đóng góp tích cực, chủ động, có trách nhiệm hơn vào các vấn đề chung của khu vực và quốc tế; đồng thời thực thi có hiệu quả các cam kết, thỏa thuận quốc tế đã ký kết, nhằm mang lại lợi ích thiết thực cho đất nước, địa phương và doanh nghiệp”, Thứ trưởng Ngô Lê Văn nói.
Việt Nam đang từng bước xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, trong đó ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa nổi lên như hai trụ cột song hành. Nếu ngoại giao kinh tế được coi là “mũi nhọn tiên phong” mở rộng không gian phát triển, thì ngoại giao văn hóa chính là sức mạnh mềm, tạo nền tảng bền vững cho địa phương và quốc gia.
![]() |
Đối thoại chính sách “Ngoại giao Việt Nam: Tầm nhìn chiến lược và Hợp tác địa phương” |
Ngoại giao kinh tế: Từ “lượng” sang “chất”
Trong giai đoạn 2021–2025, công tác ngoại giao kinh tế (NGKT) đã có những bước tiến vượt bậc, trở thành một cấu phần trung tâm của nền ngoại giao Việt Nam. Lần đầu tiên, Đại hội XIII của Đảng xác định rõ ngoại giao kinh tế là nhiệm vụ cơ bản, với phương châm “lấy người dân, doanh nghiệp và địa phương làm trung tâm”.
Ông Phạm Thái Phương, Phó Vụ trưởng Vụ Ngoại giao Kinh tế, Bộ Ngoại giao, nhấn mạnh: “Đẩy mạnh ngoại giao kinh tế không còn là lựa chọn, mà là yêu cầu cấp bách để chúng ta vượt bẫy thu nhập trung bình. Chỉ có cách đi từ ‘lượng’ sang ‘chất’, lấy hiệu quả thực chất làm thước đo, mới tạo được động lực tăng trưởng bền vững.”
Điểm mới nổi bật là cơ chế điều hành NGKT được nâng lên một tầm cao mới, với việc Thủ tướng Chính phủ trực tiếp chủ trì các hội nghị định kỳ cùng lãnh đạo các địa phương, trưởng cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng doanh nghiệp. Nhờ đó, các cam kết hợp tác quốc tế được hiện thực hóa nhanh chóng, giúp các địa phương tổ chức hiệu quả những sự kiện xúc tiến thương mại, đầu tư, du lịch, mở rộng thị trường xuất khẩu và thu hút vốn chất lượng cao.
![]() |
Ông Phạm Thái Phương, Phó Vụ trưởng Vụ Ngoại giao Kinh tế, Bộ Ngoại giao. |
Trong bối cảnh toàn cầu hóa thay đổi theo hướng khu vực hóa, chủ nghĩa bảo hộ và cạnh tranh công nghệ khốc liệt, ngoại giao kinh tế của Việt Nam cũng được tái định hình. Từ cách làm xúc tiến nhỏ lẻ, nay chuyển sang xây dựng hệ sinh thái gắn kết “nhà nước – doanh nghiệp – đối tác quốc tế”; từ ưu tiên FDI chuyển sang lấy doanh nghiệp tư nhân Việt Nam làm trung tâm; từ thụ động sang chủ động dự báo, cảnh báo sớm và tham mưu chính sách.
Bộ Ngoại giao đã xác định 5 ưu tiên hành động: Tăng cường nội dung kinh tế trong các hoạt động đối ngoại cấp cao; Nâng cao chất lượng nghiên cứu – tham mưu, gắn với thực tiễn; Làm mới động lực tăng trưởng truyền thống (đầu tư, xuất khẩu, du lịch); Chủ động tham gia định hình luật lệ, chuẩn mực quốc tế mới; Thúc đẩy động lực tăng trưởng mới dựa trên khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Với định hướng này, ngoại giao kinh tế không chỉ nhằm thu hút nguồn lực từ bên ngoài, mà còn góp phần kiến tạo thể chế, công nghệ, hạ tầng – những nền tảng thiết yếu cho phát triển lâu dài.
![]() |
Quyền Giám đốc Sở Ngoại vụ TP. Hồ Chí Minh Phạm Dứt Điểm (người ở giữa). |
Ngoại giao văn hóa: Sức mạnh mềm nâng tầm quốc gia
Song song với ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa (NGVH) ngày càng được khẳng định vai trò là một trụ cột quan trọng trong nền ngoại giao toàn diện của Việt Nam. Văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội, mà còn là tài sản vô giá, có thể chuyển hóa thành động lực phát triển bền vững.
Theo bà Lê Thị Hồng Vân, Cục trưởng Cục Ngoại vụ và Ngoại giao Văn hóa, Tổng Thư ký Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam: “Văn hóa là con đường ngắn nhất từ trái tim đến trái tim. Ngoại giao văn hóa vì thế không chỉ là quảng bá hình ảnh mà còn là cách để huy động nguồn lực, thúc đẩy hợp tác và nâng cao sức mạnh mềm của quốc gia.”
![]() |
Bà Lê Thị Hồng Vân, Cục trưởng Cục Ngoại vụ và Ngoại giao Văn hóa, Tổng Thư ký Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam. |
Thực tiễn quốc tế cho thấy, nhiều quốc gia đã tận dụng thành công kinh tế di sản và công nghiệp văn hóa để phát triển: Italia nhờ hơn 50 di sản UNESCO mà thu nhập bình quân tăng 2% trong 5 năm; Đức với 18 Khu dự trữ sinh quyển tạo doanh thu 3,84 tỷ euro/năm, hỗ trợ hơn 77.000 việc làm; Trung Quốc ghi nhận GDP thành phố tăng 3,8% nhờ di sản UNESCO; Nhật Bản, Thái Lan biến du lịch di sản thành ngành mũi nhọn, đóng góp tới 7–18% GDP.
Đối với Việt Nam, chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2030 xác định mục tiêu huy động nguồn lực bên ngoài, quảng bá hình ảnh đất nước, đồng thời phát huy tối đa giá trị nội sinh của con người và văn hóa Việt Nam.
Bà Vân cho rằng, các địa phương cần thay đổi tư duy: “Văn hóa phải được coi là một nguồn lực nội sinh, lồng ghép vào chiến lược phát triển. Phát triển văn hóa song hành với kinh tế, bảo tồn di sản đồng thời khai thác giá trị kinh tế bền vững – đó là con đường đi đúng đắn.”
Ngoại giao văn hóa còn mở ra cơ hội xây dựng công nghiệp văn hóa địa phương, quảng bá sản phẩm sáng tạo, thu hút đầu tư vào các lĩnh vực như điện ảnh, thời trang, ẩm thực, thủ công mỹ nghệ, du lịch cộng đồng… Khi được đầu tư đúng hướng, đây không chỉ là ngành kinh tế mới mà còn góp phần quảng bá thương hiệu Việt Nam ra thế giới.
![]() |
Quang cảnh buổi đối thoại. |
Giao điểm chiến lược: Ngoại giao kinh tế và văn hóa song hành
Điểm chung giữa ngoại giao kinh tế và văn hóa chính là khả năng phục vụ trực tiếp cho phát triển bền vững của địa phương. Ngoại giao kinh tế mở rộng thị trường, thu hút đầu tư và công nghệ; ngoại giao văn hóa tạo sức hút mềm, nâng cao thương hiệu và giữ chân đối tác.
Ông Phạm Thái Phương nhận định: “Chúng ta cần xây dựng một hệ sinh thái ngoại giao, trong đó các trụ cột chính trị, kinh tế, văn hóa phải gắn kết chặt chẽ. Nếu chỉ tập trung vào kinh tế mà thiếu nền tảng văn hóa, phát triển sẽ không bền vững.”
Bổ sung ý kiến này, bà Lê Thị Hồng Vân cho rằng: “Ngoại giao văn hóa sẽ giúp địa phương giữ được bản sắc, từ đó nâng cao giá trị và tính bền vững trong hợp tác kinh tế. Một trung tâm tài chính hay một khu công nghiệp chỉ thật sự hấp dẫn khi gắn với môi trường văn hóa – xã hội phong phú, cởi mở và bền vững.”
Điều đó có nghĩa là, ngoại giao kinh tế mở đường, còn ngoại giao văn hóa giữ chân. Khi kết nối, hai trụ cột này bổ trợ cho nhau, giúp địa phương không chỉ thu hút đầu tư, du khách mà còn duy trì dòng chảy phát triển lâu dài.
![]() |
Ông Lê Trường Duy - Giám đốc HCMC C4IR phát biểu ý kiến tại buổi đối thoại. |
Tầm nhìn 2045
Việt Nam đang hướng tới hai cột mốc quan trọng đó là 100 năm thành lập Đảng (2030) và 100 năm thành lập nước (2045). Để đạt mục tiêu trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao, việc kết hợp ngoại giao kinh tế và văn hóa sẽ trở thành hai cánh tay quan trọng của các địa phương.
Một cánh tay giúp khai thác tối đa nguồn lực bên ngoài – thị trường, công nghệ, vốn, tri thức. Một cánh tay giúp phát huy sức mạnh mềm bên trong – con người, bản sắc, giá trị văn hóa. Khi được triển khai đồng bộ, đây sẽ là động lực đưa Việt Nam tiến vững chắc vào kỷ nguyên phát triển nhanh, bền vững và hiện đại, đồng thời giữ vững bản sắc dân tộc.