Khó khăn và thách thức trong quá trình công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay
- 456
- Kinh doanh
- 13:55 08/06/2022
DNHN - Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực, thế giới. Quá trình này đã góp phần đem lại cho đất nước những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; tuy nhiên, như Đại hội XIII kiểm điểm: “công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa đạt được mục tiêu đề ra”.
Các quốc gia công nghiệp phát triển và các quốc gia công nghiệp hóa mới đều thành công trên con đường công nghiệp hóa nhờ biết xác định kịp thời mô hình công nghiệp hóa phù hợp với bối cảnh thế giới và điều kiện cụ thể của đất nước. Chỉ tính từ giữa thế kỷ XX đến nay, đã có 2 mô hình công nghiệp hóa rất thành công. Mô hình thay thế nhập khẩu đã biến các quốc gia Braxin, Mêhicô, Áchentina và Chilê thành các “con hổ” Mỹ La tinh. Sau đó, mô hình hướng xuất khẩu đã đem lại sự phát triển thần kỳ cho các “con hổ” Đông Á: Xinhgapo, Hàn Quốc, Hồng Công, Đài Loan. Đến đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo phương châm hướng xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu ở những lĩnh vực, mặt hàng có lợi thế.
Quá trình này đã góp phần đem lại cho đất nước những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; tuy nhiên, như Đại hội XIII kiểm điểm: “công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa đạt được mục tiêu đề ra”.
Với tính cách thị trường thương mại, thế giới ngày nay đã bị các Hiệp định thương mại tự do, nhất là các hiệp định thế hệ mới biến thành một thị trường liên hoàn, thống nhất. Ở đó, đã và sẽ nhanh chóng mất đi sự phân biệt giữa thị trường quốc nội và thị trường quốc tế. Trong bối cảnh mới như vậy, các mô hình công nghiệp hóa nêu trên hiển nhiên là không còn chỗ đứng. Việt Nam cũng như các quốc gia khác, rất cần xác định mới mô hình công nghiệp hóa, vừa thích ứng với chuỗi giá trị toàn cầu, cách mạng công nghiệp lần thứ tư…, vừa phù hợp với điều kiện, mục tiêu, yêu cầu của nước nhà. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 được thông qua tại Đại hội XIII nêu rõ mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ mới: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu công nghệ của cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực, thế giới”.
Một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ mới, công nghệ cao được xác định là những ưu tiên phát triển bao gồm: công nghệ thông tin và truyền thông, công nghiệp điện tử - viễn thông, công nghiệp sản xuất rô-bốt, ô tô, thiết bị tích hợp vận hành tự động, điều khiển từ xa, công nghiệp sản xuất phần mềm, sản phẩm số, công nghiệp an toàn thông tin, công nghiệp dược phẩm, sản xuất chế phẩm sinh học, công nghiệp môi trường, công nghiệp năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, năng lượng thông minh, công nghiệp chế biến, chế tạo phục vụ nông nghiệp và vật liệu mới…
Có thể khái quát, với tầm nhìn chiến lược, bám sát nền sản xuất công nghiệp và kinh tế công nghiệp của thế giới hiện đại, Đại hội XIII của Đảng đã kế thừa và bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước từ nay đến giữa thế kỷ XXI. Đây là cơ sở quan trọng hàng đầu để Chính phủ và các cấp, các ngành xây dựng những chính sách cụ thể, kịp thời và hiệu quả nhằm hoàn thành mục tiêu đất nước có nền công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2025 và có nền công nghiệp hiện đại vào năm 2030.
Một số khó khăn và thách thức đặt ra với quá trình CNH ở nước ta hiện nay
Lý luận và Mô hình kinh tế: Mô hình CNH, HĐH của Việt Nam vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện; chưa được cụ thể hóa thành những tiêu chí cụ thể của một nước công nghiệp. Thực hiện CNH, HĐH chưa bằng thể chế của nền kinh tế thị trường, tuân theo các quy luật khách quan của cơ chế thị trường.
Chiến lược CNH, HĐH trong thời gian dài chưa xác định rõ trọng tâm, trọng điểm cần thiết cho từng giai đoạn phấn đấu. Nhiều cơ chế, chính sách còn thiếu, hoặc thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
CNH, HĐH theo yêu cầu “rút ngắn”, cũng chưa làm rõ được những nội dung cơ bản, và động lực để thực hiện quá trình CNH, HĐH rút ngắn.
Xu hướng kinh tế thế giới: Công nghiệp thế giới có xu hướng tăng chậm hơn, trong khi áp lực cạnh tranh giữa các nước công nghiệp mới và đang phát triển càng “gay gắt”. Do khoa học và công nghệ phát triển nhanh, nhiều nền kinh tế đang phát triển sẽ bị ảnh hưởng từ nguy cơ chuyển sang thời kỳ hậu công nghiệp sớm hơn so với dự kiến.
Phát triển kinh tế và ngành công nghiệp: Tăng trưởng kinh tế nước ta vẫn dựa nhiều vào đầu tư vốn và tăng trưởng tín dụng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu, dựa trên khoa học công nghệ và tri thức. Do đó, nền kinh tế nước ta phát triển thiếu bền vững, chất lượng tăng trưởng không cao.
Tỷ trọng các ngành trong cơ cấu kinh tế, vẫn còn khoảng cách lớn để đạt đến mức là một nước có nền kinh tế phát triển. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, đang đặt ra các thách thức đối với nước ta trong việc thực hiện các mục tiêu CNH, HĐH.
Tăng trưởng của ngành công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Tỷ trọng đóng góp của ngành công nghiệp trong cơ cấu GDP cả nước chưa cao, và tăng/giảm không ổn định trong các giai đoạn vừa qua. Đến năm 2018, ngành công nghiệp đạt 28,4%, thấp hơn năm 2010 (đạt 31,7%).
Quá trình tái cơ cấu ngành công nghiệp thực hiện còn chậm, chưa tạo ra những thay đổi đáng kể về cơ cấu công nghiệp. Ngành Khai khoáng, dù tỷ trọng VA của ngành có xu hướng giảm dần (từ 36,5% xuống 25,9% trong giai đoạn 2011-2018) nhưng vẫn chiếm cao trong cơ cấu VA toàn ngành công nghiệp.
Chỉ số GDP/người: Từ năm 2000 đến nay, GDP/người của nước ta đã tăng khá nhanh, đến năm 2018 đạt 2.590 USD/người, gấp hơn 6,6 lần so với năm 2000. Tính theo sức mua tương đương thì GDP/người của Việt Nam hiện đạt khoảng 7.435 USD/người.
Từ số liệu các năm cho thấy, mặc dù GDP/người của Việt Nam đã có những bước cải thiện so với mức bình quân của thế giới (từ 26,0% năm 2000, lên 34,2% năm 2010 và 41,3% năm 2018), tuy nhiên trong gần 20 năm phát triển kinh tế đã qua cho thấy, khoảng cách chệch lệch của Việt Nam với thế giới vẫn còn ở mức khá cao. So sánh tương đối với một số quốc gia trong “Các nước mới công nghiệp” (NICs) thì Việt Nam hiện tương đương với Ấn Độ (đạt 7.874 USD); thấp hơn Philipine (8.936 USD); bằng 1/2 của Indonesia, Nam Phi, Braxin và từ 1/3-1/4 của Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ và Malaysia.
Có thể nói hiện nay, chỉ số GDP/người là một vấn đề lớn của nền kinh tế nước ta, trong việc tính toán và xây dựng mục tiêu phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới.
Năng suất lao động: Năng suất lao động có mối liên hệ trực tiếp với GDP/người và đang thể hiện rõ vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, Việt Nam hiện có diện tích thuộc nhóm trung bình của thế giới và đặc biệt đang có nhiều thuận lợi về dân số (quy mô, độ tuổi lao động), tuy nhiên năng suất lao động của Việt Nam nói chung, và ngành công nghiệp nói riêng vẫn đang ở mức độ thấp, khi so với các nước phát triển. Qua đó cho thấy, nền kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với thách thức rất lớn trong thời gian tới, để có thể bắt kịp mức năng suất lao động của các nước trong khu vực, và trên thế giới.
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế: Năng lực cạnh tranh toàn cầu của nền kinh tế Việt Nam chỉ ở mức trung bình và có vị trí tăng/giảm không ổn định trong thời gian vừa qua. Đến năm 2019, Việt Nam đứng vị trí 67/141 nền kinh tế, tăng thêm 10 bậc so với năm 2018 và vẫn còn một khoảng cách khá xa, so với các nước đứng đầu trong khu vực ASEAN.
Dân số và nguồn nhân lực: Việt Nam là quốc gia có tốc độ già hóa dân số khá nhanh so với thế giới. Nước ta đã bước vào giai đoạn già hóa dân số từ năm 2011 và dự báo đến năm 2030, tỷ lệ người cao tuổi ở Việt Nam sẽ tăng lên 17% và đạt đến 25% vào năm 2050. Quá trình già hóa dân số nhanh sẽ khiến lực lượng lao động bị thu hẹp, ảnh hưởng đến năng suất lao động của toàn nền kinh tế, và tác động lâu dài đến các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội. Đây là một thách thức lớn, đến phát triển kinh tế Việt Nam trong tương lai gần.
Chất lượng nguồn nhân lực thiếu hụt lao động có tay nghề cao; cơ cấu lao động qua đào tạo bất hợp lý và lạc hậu (Tỷ lệ tương quan giữa số lượng lao động có trình độ đại học trở lên/caođẳng/trungcấp/sơ cấp nghề năm 2018 là: 1/0,37/0,54/0,37). Có thể đánh giá, việc hạn chế về nguồn nhân lực đang được xem là một trong những rào cản lớn nhất đối với quá trình phát triển kinh tế và CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
Khoa học và công nghệ: Khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế và thúc đẩy quá trình CNH; huy động nguồn lực của xã hội vào các hoạt động khoa học và công nghệ còn yếu; đầu tư cho khoa học và công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao; thị trường khoa học và công nghệ chưa gắn kết chặt chẽ kết quả nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo, với nhu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý.
Xuất khẩu hàng hóa: Chính sách phát triển xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững. Tăng trưởng xuất khẩu nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP nhưng chưa vững chắc. Độ mở của nền kinh tế qua kênh xuất khẩu khá lớn nhưng quy mô xuất khẩu còn nhỏ; chỉ số xuất khẩu sản xuất bình quân đầu người chỉ ở mức trung bình trên thế giới.
Xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (hiện chiếm trên 70% kim ngạch xuất khẩu), dẫn đến nền kinh tế và ngành công nghiệp Việt Nam nói riêng, gặp nhiều khó khăn trong việc chủ động phát triển các ngành công nghiệp trong dài hạn, do doanh nghiệp FDI, có thể sẽ chuyển hoặc đầu tư sang các quốc gia khác sản xuất, nếu các điều kiện cho đầu tư và sản xuất, tiếp cận thị trường xuất khẩu,... gặp thuận lợi hơn.
Đầu tư từ nước ngoài: Hiệu quả chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đạt thấp. Các dự án FDI chủ yếu tập trung vào gia công, lắp ráp và có tỷ lệ nội địa hóa thấp; chưa tạo được sự lan tỏa công nghệ từ doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp trong nước như kỳ vọng. Thu hút đầu tư vào một số ngành, lĩnh vực ưu tiên từ các tập đoàn lớn đa quốc gia còn hạn chế; hơn một nửa dự án FDI có quy mô dưới 1 triệu USD.
Quá trình đô thị hóa và phát triển hạ tầng: Quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ khá nhanh, nhưng thiếu sự đồng bộ giữa hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội; trình độ, năng lực quản lý và phát triển đô thị còn thấp so với yêu cầu.
Tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng ở phần lớn đô thị Việt Nam đều chậm so với phát triển kinh tế xã hội. Tình trạng phát triển đô thị hiện nay chưa đáp ứng với sự đổi thay về tư duy quản lý đô thị hóa, phát triển đô thị theo hướng CNH và HĐH.
Theo Cổng thông tin Bộ Công thương
Bài liên quan
- WB: Năm 2022 kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 7,5%
- Bộ Xây dựng: Thiếu đồng bộ trong các quy định của pháp luật về xây dựng, đô thị và đất đai
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Người kế tục sự nghiệp vĩ đại của Hồ Chủ tịch
- Việt Nam sau 27 năm gia nhập ASEAN (28/7/1995-28/7/2022)
- Đầu tháng 8 lãi suất tiền gửi liên tục tăng cao
- Nửa đầu năm 2022 xuất khẩu cà phê sang EU tăng kỷ lục nhờ EVFTA
- Phi lí khi giá xăng dầu giảm, giá hàng hoá không giảm
- Ngành công nghiệp máy ảnh ở Nhật Bản chuyển mình trước "cơn bão" smartphone
- Hơn 55.000 doanh nghiệp kết nối cơ chế một cửa quốc gia
- Mức xuất siêu của Việt Nam còn thấp và thiếu tính bền vững
- Dù giá xăng giảm, doanh nghiệp vẫn phải tiếp tục gồng mình
- Gỡ khó trong chuyển đổi mục đích sử dụng đất cho doanh nghiệp
- Cảnh báo từ Thương vụ Việt Nam tại Australia
- Quy hoạch Điện VIII - quyết tâm cao của Chính phủ để thực hiện cam kết COP26
- ASEAN luôn là một trụ cột quan trọng trong đường lối đối ngoại của Việt Nam
- Tháo gỡ vướng mắc về việc chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ
- Phó Thống đốc NHNN: Tiền ảo, các loại giống tiền ảo không hợp pháp tại Việt Nam
- Các hãng hàng không châu Á chờ đợi sự phục hồi của lượng khách Trung Quốc
#hiện đại hóa

Công cuộc chuyển đổi nền nông nghiệp Việt Nam theo hướng hiện đại hóa
Đây cũng là nội dung chính tại Hội thảo Quốc tế Mô hình Kinh tế Nông nghiệp và Khu dân cư Nông thôn Thái Bình đến năm 2030, tầm nhìn 2045 diễn ra tại Thái Bình vào ngày 8/1. Tại Hội thảo, các diễn giả đã đưa ra những đánh giá rằng lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam đã có chuyển biến mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu rất quan trọng, nông nghiệp, nông thôn, nông dân nước ta đang đứng trước rất nhiều thách thức.

Đề án tái cơ cấu ngân hàng: Xử lý nợ xấu, phân nhóm, hiện đại hóa và lại… tái sắp xếp
Đề án lần này tiếp tục nhấn mạnh việc cơ cấu lại các tổ chức tín dụng (TCTD) gắn với xử lý nợ xấu, với mục tiêu giữ tỷ lệ nợ xấu nội bảng và ngoại bảng dưới 3%, giống như Đề án 1058 cho giai đoạn 2016-2020; ngoài ra cũng đặt mục tiêu trọng tâm phấn đấu đến năm 2025 giảm số lượng các TCTD thông qua khuyến khích hợp nhất, sáp nhập (M&A) tự nguyện mà Đề án 254 cho giai đoạn 2011-2015 đã từng nêu ra.
Đọc thêm Kinh doanh
Nửa đầu năm 2022 xuất khẩu cà phê sang EU tăng kỷ lục nhờ EVFTA
Theo Bộ Công Thương, việc đẩy mạnh xuất khẩu cà phê vào EU sẽ giúp ngành hàng tăng trưởng ổn định và khẳng định chỗ đứng vững trên thị trường thế giới. Ngay từ khi có hiệu lực, Hiệp định EVFTA đã đưa thuế đối với nhiều dòng sản phẩm cà phê của Việt Nam về 0%, tạo điều kiện giúp ngành cà phê Việt Nam gia tăng giá trị và mở rộng thị phần tại EU.
Xuất khẩu thủy sản có dấu hiệu hạ nhiệt, tăng trưởng chậm lại
Thống kê của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), sau khi tăng nóng từ 39- 62% trong 4 tháng đầu năm, từ tháng 5, xuất khẩu thủy sản đã có dấu hiệu hạ nhiệt, tăng trưởng chậm lại.
5 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỷ USD
7 tháng đầu năm 2022, có 5 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 58,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.
VEC điều chỉnh lại quy định liên quan đến số dư tài khoản thu phí không dừng
Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam (VEC) vừa điều chỉnh lại quy định liên quan đến số dư tài khoản thu phí không dừng. Theo đó, VEC hủy bỏ quy định bắt buộc tài xế phải duy trì số dư tài khoản bằng 50% mức phí của chặng dài nhất.
THACO đặt kế hoạch đạt 20 siêu thị đến năm 2026
Thaco đặt kế hoạch đạt 20 siêu thị trong 5 năm tới, đến năm 2026 mục tiêu doanh thu 1 tỷ USD. TPHCM được chọn làm điểm đến đầu tiên của Emart tại Việt Nam để chinh phục mục tiêu đưa Emart trở thành đại siêu thị hàng đầu Việt Nam.
Phê duyệt hơn 1.840 tỷ đồng đầu tư cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 14E Quảng Nam
Ngày 5/8, Sở Giao thông vận tải (GTVT) tỉnh Quảng Nam cho biết Bộ GTVT vừa ban hành quyết định phê duyệt dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 14E đoạn Km 15+270 đến Km89 +700 qua tỉnh Quảng Nam với tổng mức đầu tư của dự án hơn 1.848 tỷ đồng, từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, tiến độ thực hiện dự kiến từ 2021 đến 2025.
Xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của Việt Nam trong quý II/2022 tiếp tục phục hồi
Những tác động của dịch Covid-19 đã khiến ngành sắn Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, xuất khẩu sắn và sản phẩm sắn đã lấy lại đà tăng trưởng sau khi dịch bệnh được kiểm soát và trở thành một trong số ít mặt hàng nông sản có giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng dương.
7 tháng đầu năm 2022, giá trị xuất siêu nông, lâm, thủy sản tăng gấp đôi cùng kỳ
Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản 7 tháng đầu năm 2022, ước gần 32,3 tỷ USD, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 7 đạt 485.984 tỷ đồng, tăng 2,4%
Theo Bộ Công Thương, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 7 đạt 485.984 tỷ đồng, tăng 2,4% so với tháng trước và tăng 42,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước giảm 19,5% do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 bùng phát tại nhiều địa phương).
Khu Công nghiệp VSIP Nghệ An thu hút được 31 dự án, đạt tỷ lệ lấp đầy 53%
Khu Công nghiệp VSIP Nghệ An đã thu hút 31 dự án đầu tư với tổng vốn 13.046 tỷ đồng, đạt tỷ lệ lấp đầy 53%, trong đó có 29 dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư…