![]() |
Giá lúa gạo hôm nay 23/6/2025: Giá lúa trong nước đứng yên, giá gạo xuất khẩu bình ổn. |
Theo dữ liệu từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang với mặt hàng lúa: Lúa IR 50404 (tươi) đang ở quanh giá 5.300 - 5.500 đồng/kg; giá lúa Đài thơm 8 (tươi) giữ tại ngưỡng 6.000 - 6.100 đồng/kg.
Lúa OM 5451 giao dịch tại giá 5.900 - 6.100 đồng/kg (tăng 200 đồng); lúa OM 18 (tươi) có giá 6.000 - 6.100 đồng/kg.
Lúa OM 380 (tươi) giữ quanh mức 5.300 - 5.600 đồng/kg; giá lúa Nhật neo tại mốc 7.800 - 8.000 đồng/kg; Lúa OM504 (tươi) đang có giá 5.400 - 5.500 đồng/kg (tăng 100 đồng).
Lúa Nàng Nhen (khô) giao dịch ở mức 20.000 đồng/kg; còn Nàng Hoa 9 có giá 6.650 - 6.750 đồng/kg.
Giống lúa | Giá (đồng/ kg) |
OM 18 (tươi) | 6.000 - 6.100 |
Đài Thơm 8 (tươi) | 6.000 - 6.100 |
OM 380 (tươi) | 5.300 - 5.600 |
Lúa Nhâth | 7.800 - 8.000 |
IR 50404 (tươi) | 5.300 - 5.500 |
OM 5451 (tươi) | 5.900 - 6.100 |
Nàng Hoa 9 | 6.650 - 6.750 |
OM 504 (tươi) | 5.400 - 5.500 |
Ghi nhận tại nhiều địa phương hôm nay, lúa khô nhu cầu chậm, ít kho mua, trong khi lúa Hè Thu thu giao dịch mua bán chậm.
Tại Cần Thơ, nhiều đồng vãn lúa, lượng còn lại chủ yếu tập trung ở Vĩnh Thạnh, giá tương đối ổn định, giao dịch mua bán chậm. Trong khi ở An Giang, nông dân tiếp tục chào bán lúa Hè Thu khá, giao dịch mua bán khởi sắc, giá lúa tươi biến động.
Ở Đồng Tháp, thương lái hỏi mua lúa Hè Thu thu lai rai, giá lúa ít biến động. Còn ở Kiên Giang, nông dân chào bán lúa Hè Thu khá, giao dịch mua bán vắng.
Bảng giá lúa hôm nay 23/6/2025 tại một số tỉnh khu vực ĐBSCL
Giống lúa | Giá (đồng/ kg) |
OM 18 | 5.800 - 6.100 |
Đài Thơm 8 | 5.900 - 6.200 |
OM 34 | 5.300 - 5.600 |
OM 380 | 5.400 - 5.700 |
OM 5451 | 5.700 - 6.000 |
Nàng Hoa | 6.400 - 6.700 |
Japonica | 7.700 - 8.000 |
ST24 - ST25 | 8.100 - 8.500 |
Lúa Nhật | 7.500 - 7.800 |
RVT | 7.500 - 7.800 |
IR 504 | 5.400 - 5.700 |
Bên cạnh đó, thị trường nếp không ghi nhận biến động, ổn định so với ngày hôm qua 22/6, thị trường đi ngang.
Giống nếp | Giá (đồng/ kg) |
Nếp IR 4625 (tươi) | 7.700 - 7.900 |
Nếp IR 4625 (khô) | 9.700 - 9.900 |
Nếp 3 tháng (tươi) | 8.100 - 8.200 |
Nếp 3 tháng (khô) | 9.600 - 9.700 |
Với mặt hàng gạo, heo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang, hiện giá gạo nguyên liệu CL 555 hôm nay dao động ở mức 8.250 - 8.350 đồng/kg; gạo nguyên liệu IR 504 dao động ở mức 8.050 - 8.150; gạo nguyên liệu OM 380 dao động ở mức 7.850 - 7.900 đồng/kg; gạo nguyên liệu 5451 dao động ở mức 9.100 - 9.150 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 18 dao động ở mức 10.200 - 10.400 đồng/kg
Gạo thành phẩm OM 380 dao động ở 8.800 - 9.000 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 dao động ở 9.500 - 9.700 đồng/kg.
Ghi nhận tại các địa phương hôm nay, giá gạo duy trì ổn định, chủng loại 50404, OM 380 nguồn ít, kho chợ hỏi mua chậm.
Tại An Giang, giao dịch mua bán chậm, giá ít biến động. Ở Lấp Vò (Đồng Tháp), lương về lai rai, giá gạo các loại ổn định.
Trong khi, gạo nguyên liệu xô tại Sa Đéc (Đồng Tháp) ổn định, giá tùy chất lượng, giao dịch mua bán đều. Riêng kênh chợ có lượng về lai rai, kho chợ mua chậm, giá gạo các loại đứng vững.
Ở An Cư (Cái Bè, Tiền Giang), lượng về ít, giá ít biến động, giao dịch mua bán vẫn chậm.
Trên thị trường gạo, tại các chợ lẻ giá gạo đứng giá, ghi nhận không có sự điều chỉnh với các mặt hàng gạo lẻ so với ngày hôm qua. Hôm nay, gạo Nàng Nhen vẫn tiếp tục có giá niêm yết cao nhất 28.000 đồng/kg, gạo thường dao động ở mốc 13.000 - 14.000 đồng/kg.
Giống gạo | Giá (đồng/ kg) |
Nàng Nhen | 28.000 |
Gạo Trắng | 16.000 - 17.000 |
Gạo Thường | 14.000 – 15.000 |
Gạo Thơm | 16.000 - 18.000 |
Gạo Jasmine | 16.000 - 18.000 |
Gạo Nàng Hoa | 21.000 |
Gạo Tẻ thường | 15.000 - 16.000 |
Gạo Thơm Thái hạt dài | 20.000 - 22.000 |
Gạo Hương Lài | 22.000 |
Gạo Thơm Đài Loan | 21.000 |
Gạo Nhật | 22.000 |
Gạo Sóc thường | 17.000 |
Gạo Sóc Thái | 20.000 |
Với phụ phẩm, giá các mặt hàng phụ phẩm dao động khoảng từ 7.400 - 10.000 đồng/kg. Hiện tấm OM 5451 dao động ở mức 7.400 - 7.500 đồng/kg; giá cám dao động ở mức 9.000 - 10.000 đồng/kg so với hôm qua.
Ngoài ra, đối với mặt hàng trấu, giá đi ngang ở mức 1.000 - 1.150 đồng/kg.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đi ngang so với hôm qua. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), hiện gạo tiêu chuẩn 5% ở mức 387 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 362 USD/tấn; gạo 100% tấm ở mức 319 USD/tấn.
5 tháng đầu năm 2025, Việt Nam xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 2,34 tỷ USD, tăng 12,2% về khối lượng nhưng giảm 8,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024. Nguyên nhân chính là do giá gạo xuất khẩu giảm, bình quân 5 tháng ước đạt 516,4 USD/tấn, giảm 18,7% so với cùng kỳ năm 2024. Philippines là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam với thị phần chiếm 41,4%; tiếp theo là Bờ Biển Ngà với thị phần 11,9%.
Tính riêng 4 tháng đầu năm 2025, giá trị xuất khẩu gạo sang thị trường Philippines giảm 21,8%; giá trị xuất khẩu gạo sang thị trường Indonesia giảm tới 97,9%. Tuy nhiên, xuất khẩu gạo sang Trung Quốc đang lấy lại đà tăng trưởng khi trở thành thị trường xuất khẩu gạo lớn thứ 3 của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2025 với thị phần 10,3%; giá trị xuất khẩu tăng 83,7% trong 4 tháng đầu năm 2025. Riêng tại thị trường Bangladesh, giá trị xuất khẩu gạo 4 tháng đầu năm 2025 tăng mạnh với mức 515,6 lần.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, sản lượng lúa của Indonesia 6 tháng đầu năm 2025 dự kiến đạt 32,57 triệu tấn (khoảng 18,8 triệu tấn gạo xay xát), tăng khoảng 11,2% so với cùng kỳ năm 2024. Indonesia đã tăng dự báo sản lượng gạo năm 2025 lên hơn 34 triệu tấn, tăng so với dự báo trước đó là 32 triệu tấn. Dự kiến, khi sản lượng vượt quá nhu cầu quốc gia là 31 triệu tấn có khả năng sẽ cho phép xuất khẩu. Còn tại Philippines, tổng lượng gạo dự trữ cũng tăng khiến nhu cầu nhập khẩu giảm.
Đối với thị trường Trung Quốc, mặc dù ghi nhận tăng trưởng xuất khẩu trong những tháng đầu năm 2025 nhưng gạo Việt Nam lại bị cạnh tranh gay gắt bởi gạo Thái Lan và Campuchia ở cùng phân khúc về cả chất lượng và mẫu mã. Trong khi đó, quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới là Ấn Độ tiếp tục gia tăng lượng gạo xuất khẩu. Cụ thể, từ tháng 4/2024 đến hết tháng 3/2025, Ấn Độ đã xuất khẩu 19,865 triệu tấn gạo, tăng 21,4% so với cùng kỳ năm trước.