![]() |
Giá lúa gạo hôm nay 15/8/2025: Thị trường giữ nhịp đi ngang. |
Tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, giá lúa hôm nay tiếp tục đi ngang, nối dài chuỗi ngày bình ổn, ít biến động. Các loại lúa phổ biến vẫn được thương lái thu mua quanh ngưỡng cũ.
Giống lúa | Giá (đồng/ kg) |
OM 18 (tươi) | 6.000 - 6.200 |
Đài Thơm 8 (tươi) | 6.000 - 6.200 |
OM 380 (tươi) | 5.700 - 5.900 |
IR 50404 (tươi) | 5.600 - 5.800 |
OM 5451 (tươi) | 5.900 - 6.000 |
Nàng Hoa 9 (tươi) | 5.800 - 6.000 |
OM 504 (tươi) | 5.400 - 5.500 |
Ghi nhận tại nhiều địa phương hôm nay, nguồn lúa cuối vụ còn ít, giá ít biến động. Tại Tây Ninh (Long An cũ), lượng lúa Hè Thu chưa cọc còn ít, giao dịch mua bán chậm lại, giá vững. Tại Cần Thơ, giao dịch mua bán lúa Thu Đông tiếp tục chậm, đa số chờ quan sát, giá tương đối ổn định.
Tại Đồng Tháp (Tiền Giang cũ), nông dân chào giá vững, giao dịch lúa có ít, thương lái cho giá lúa thơm giảm nhẹ. Tại An Giang, lúa cuối đồng, thương lái mua mới vắng, giá ít biến động. Tại Cà Mau (Bạc Liêu cũ), giao dịch mua mới vẫn chậm, thương lái mua lựa đồng, giá ít biến động. Tại Đồng Tháp, nguồn còn ít, thương lái ngưng mua nhiều, giá ít biến động.
Bảng giá lúa hôm nay 15/8/2025 tại một số tỉnh khu vực ĐBSCL
Giống lúa | Giá (đồng/ kg) |
OM 18 | 6.400 - 6.700 |
Đài Thơm 8 | 6.400 - 6.700 |
OM 34 | 5.700 - 6.000 |
OM 380 | 5.700 - 6.000 |
OM 5451 | 5.900 - 6.200 |
Nàng Hoa | 6.200 - 6.500 |
Japonica | 7.900 - 8.200 |
ST24 - ST25 | 8.200 - 8.500 |
Lúa Nhật | 7.400 - 7.700 |
RVT | 7.700 - 8.000 |
IR 504 | 5.900 - 6.200 |
Bên cạnh đó, thị trường nếp không ghi nhận biến động, ổn định so với ngày hôm qua 14/8, thị trường đi ngang.
Giống nếp | Giá (đồng/ kg) |
Nếp IR 4625 (tươi) | 7.300 - 7.500 |
Nếp IR 4625 (khô) | 9.500 - 9.700 |
Nếp 3 tháng (tươi) | 8.100 - 8.200 |
Nếp 3 tháng (khô) | 9.600 - 9.700 |
Theo khảo sát từ thị trường nội địa cho thấy giá gạo nguyên liệu tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long hôm nay cũng duy trì ổn định, đi ngang so với hôm qua.
Hiện gạo nguyên liệu OM 380 dao động ở mức 8.800 - 8.900 đồng/kg; gạo nguyên liệu IR 504 dao động ở mức 8.450 - 8.550 đồng/kg; gạo nguyên liệu CL 555 dao động ở mức 8.600 - 8.750 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 18 dao động ở mức 9.600 - 9.700 đồng/kg; gạo nguyên liệu 5451 dao động ở mức 9.500 - 9.650 đồng/kg.
Gạo thành phẩm OM 380 dao động ở 8.800 - 9.000 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 dao động ở 9.500 - 9.700 đồng/kg.
Ghi nhận tại các địa phương hôm nay, chủng loại IR50404/OM380 nguồn cung về ít, kho mua đều, giá gạo các loại bình ổn. Tại An Giang, các kho lớn mua đều, giá gạo ít biến động. Tại khu vực Lấp Vò (Đồng Tháp), lượng về ít, giao dịch mua bán chậm, gạo các loại bình giá. Tại khu vực Sa Đéc (Đồng Tháp), gạo về các bến lai rai, gạo các loại vững giá.
Kênh chợ Sa Đéc (Đồng Tháp), về lượng lai rai, sức mua cầm chứng, giá ít biến động. Tại An Cư - Đồng Tháp mới (Cái Bè, Tiền Giang cũ), về lượng ít, giao dịch mua bán khởi sắc hơn, giá bình ổn.
Trên thị trường gạo, tại các chợ lẻ giá gạo đứng giá, ghi nhận không có sự điều chỉnh với các mặt hàng gạo lẻ so với ngày hôm qua. Hôm nay, gạo Nàng Nhen vẫn tiếp tục có giá niêm yết cao nhất 28.000 đồng/kg, gạo thường dao động ở mốc 13.000 - 14.000 đồng/kg.
Giống gạo | Giá (đồng/ kg) |
Nàng Nhen | 28.000 |
Gạo Trắng | 16.000 - 17.000 |
Gạo Thường | 14.000 – 15.000 |
Gạo Thơm | 17.000 - 22.000 |
Gạo Jasmine | 16.000 - 18.000 |
Gạo Nàng Hoa | 21.000 |
Gạo Tẻ thường | 13.000 - 14.000 |
Gạo Thơm Thái hạt dài | 20.000 - 22.000 |
Gạo Hương Lài | 22.000 |
Gạo Thơm Đài Loan | 20.000 |
Gạo Nhật | 22.000 |
Gạo Sóc thường | 16.000 - 17.000 |
Gạo Sóc Thái | 20.000 |
Với phụ phẩm, giá các mặt hàng phụ phẩm giữ nguyên giá cũ, dao động khoảng từ 7.500 - 9.000 đồng/kg. Hiện tấm thơm OM 504 dao động ở mức 7.500 - 7.700 đồng/kg; giá cám vẫn dao động ở mức 6.200 - 6.300 đồng/kg, đi ngang so với hôm qua.
Ngoài ra, đối với mặt hàng trấu, giá tiếp tục giữ ổn định ở mức 1.000 - 1.150 đồng/kg.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo của Việt Nam không ghi nhận điều chỉnh mới so với phiên hôm qua. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), hiện gạo 25% tấm ở mức 371 USD/tấn; gạo 100% tấm ở mức 339 USD/tấ; gạo tiêu chuẩn 5% ở mức 395 USD/tấn - cao nhất trong số các quốc gia xuất khẩu hàng đầu.
Mới đây, Hiệp hội Xuất khẩu gạo Thái Lan cho biết, Việt Nam đã vượt qua Thái Lan để thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới trong 6 tháng đầu năm nay.
Trong 6 tháng đầu năm nay, Việt Nam xuất khẩu khoảng 4,72 triệu tấn gạo, tăng 3,5% so với cùng kỳ, vượt Thái Lan với 3,73 triệu tấn (giảm mạnh 27,3%) so với cùng kỳ năm trước.
Thành tích này giúp Việt Nam tạm nắm vị trí số hai toàn cầu, chỉ đứng sau Ấn Độ, quốc gia đã bán ra tới 11,68 triệu tấn, tăng 36,5% trong cùng thời gian kể trên. Sang tháng 7, Việt Nam tiếp tục nâng tổng lượng xuất khẩu 7 tháng lên 5,5 triệu tấn, thu về 2,81 tỷ USD. Tuy nhiên, giá trị này giảm gần 16% so cùng kỳ, phản ánh sức ép rõ rệt lên giá bán ngay cả khi khối lượng tăng.
Đằng sau sự hoán đổi vị trí với Thái Lan là hai xu hướng song song. Một mặt, xuất khẩu gạo Thái Lan sụt giảm sâu bởi chính nước này cũng đã dự báo cả năm chỉ đạt 7,5 triệu tấn, thấp hơn nhiều so với 9,94 triệu tấn của năm 2024. Rủi ro lớn hơn đến từ căng thẳng thương mại với Mỹ, khi Washington đe dọa áp thuế 36% lên gạo Thái, đẩy giá bán từ khoảng 1.000 USD/tấn lên 1.400-1.500 USD/tấn. Mức giá cao khiến nhiều khách hàng chuyển hướng sang những nguồn cung cạnh tranh hơn, trong đó có Việt Nam.
Ở chiều ngược lại, Việt Nam không chỉ tận dụng “khoảng trống” mà còn chủ động mở rộng thị trường. Với giá xuất khẩu trung bình 514-517 USD/tấn, gạo Việt Nam rẻ hơn đáng kể so với gạo Thái Lan, qua đó thâm nhập mạnh hơn vào các khu vực ngoài thị trường truyền thống.
Philippines vẫn dẫn đầu về nhập khẩu, nhưng xuất sang Ghana tăng hơn 50%, sang Bờ Biển Ngà gần gấp đôi và sang Bangladesh tăng vọt về giá trị. Sự đa dạng hóa này giúp giảm phụ thuộc vào một thị trường, nhưng cũng đặt ra yêu cầu cao hơn về tiêu chuẩn chất lượng và truy xuất nguồn gốc nếu muốn tiến sâu vào EU hoặc Bắc Mỹ.
Tuy nhiên, cạnh tranh từ Ấn Độ đang tạo áp lực lớn. Nước này tăng mạnh xuất khẩu sau khi nới lỏng các biện pháp hạn chế xuất khẩu, khiến nguồn cung toàn cầu dồi dào và giá giảm xuống mức thấp nhiều năm. Trong bối cảnh nguồn cung dư thừa và dự trữ lớn, biên lợi nhuận của các nhà xuất khẩu, kể cả Việt Nam sẽ chịu sức ép đáng kể.