Giá lúa gạo tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục xu hướng đi lên từ tuần trước, tăng thêm 100 - 200 đồng/kg ở một số chủng loại. Trên thế giới, giá gạo xuất khẩu trên thị trường châu Á đồng loạt giảm nhẹ.
![]() |
Giá lúa gạo hôm nay 1/4/2025: Giá lúa gạo trong nước tăng 100 - 200 đồng/kg, gạo xuất khẩu giảm nhẹ |
Giá gạo trong nước
Ghi nhận tại các địa phương hôm nay, tại An Giang, lượng khá, kho vẫn mua đều gạo thơm, gạo các loại vững giá. Trong khi, kênh chợ Sa Đéc (Đồng Tháp), lượng khá, kho mua vào đều, dễ giao dịch, giá gạo bình ổn.
Ở An Cư (Cái Bè, Tiền Giang), lượng ít, giao dịch mua bán chậm, giá vững. Còn tại Lấp Vò (Đồng Tháp), lượng ít, kho mua đều, giá gạo ổn định.
Với mặt hàng gạo, tại các khu vực khác của Đồng bằng sông Cửu Long gạo nguyên liệu OM 380 giao dịch từ 7.600 -7.800 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg so với cuối tuần trước. Tương tự, giá gạo nguyên liệu IR 504 cũng tăng 200 đồng/kg, lên mức 7.800 - 8.000 đồng/k; gạo nguyên liệu OM 5451 ở mức 8.600 - 8.750 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 18 dao động ở mức 9.300 - 9.500 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 dao động ở 7.600 - 7.800 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá gạo hôm nay 1/4/2025. |
Tại các chợ lẻ, giá gạo không ghi nhận điều chỉnh mới. Hiện, gạo Nàng Nhen có giá niêm yết cao nhất 28.000 đồng/kg; gạo thường dao động ở mốc 15.000 - 16.000 đồng/kg; gạo thơm thái hạt dài dao động ở mức 20.000 - 22.000 đồng/kg; gạo Hương Lài 22.000 đồng/kg; gạo thơm Jasmine dao động ở mức 18.000 - 20.000 đồng/kg; gạo Nàng hoa ở mốc 22.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan 21.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng ở mốc 17.000 đồng/kg; gạo Sóc thường dao động ở mốc 18.000 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 21.000 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg; giá cám hiện ở mức 8.000 - 9.000 đồng/kg.
Thị trường nếp hôm nay không biến động. Hiện, giá nếp IR 4625 dao động trong khoảng 7.900 – 8.000 đồng/kg; nếp 3 tháng khô duy trì ở mức 9.600 - 9.700 đồng/kg; giá nếp IR 4625 (tươi) dao động từ 7.600 - 7.700 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá nếp hôm nay 1/4/2025. |
Mặt hàng phụ phẩm
Với phụ phẩm, giá các mặt hàng phụ phẩm dao động khoảng từ 5.500 - 7.300 đồng/kg. Hiện, giá tấm thơm dao động ở mức 7.100 - 7.300 đồng/kg; tấm 3-4 hiện ở mức 6.800 - 6.900 đồng/kg; trấu dao động từ 800 - 900 đồng/kg; giá cám khô đứng ở mức 5.500 - 5.650 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá phụ phẩm hôm nay 1/4/2025. |
Giá lúa trong nước
Tại nhiều địa phương, nguồn khá, giao dịch mua bán tốt hơn. Tại Đồng Tháp, nông dân chào giá lúa thơm giá tăng nhẹ, giao dịch mua bán đều. Trong khi đó, nguồn lúa tại một số khu vực ở An Giang tiếp tục giảm, giao dịch mua bán chậm, giá lúa nhích nhẹ.
Tại Hậu Giang, nông dân chào bán lúa nhích nhẹ, nguồn lúa đồng thường thu hoạch vãn, lượng chưa cọc còn ít, giá tăng nhẹ. Còn tại Kiên Giang, nhu cầu mua lúa Japonia nhiều, giá lúa Japonia tăng, thơm vững giá.
Với mặt hàng lúa, theo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang, giá lúa Nàng Hoa 9 được các thương lái điều chỉnh tăng 100 đồng/kg trong ngày đầu tuần, lên mức 6.550 - 6.650 đồng/kg. Trong khi đó, giá của các chủng loại khác nhìn chung không đổi. Cụ thể, lúa Đài thơm 8 (tươi) và OM 18 (tươi) được giao dịch ở mức 6.600 – 6.700 đồng/kg; lúa OM 5451 từ 5.700 – 5.900 đồng/kg; lúa IR 50404 từ 5.500 - 5.700 đồng/kg;…
![]() |
Bảng giá lúa hôm nay 1/4/2025. |
Tại thị trường xuất khẩu
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), trong phiên giao dịch gần nhất, giá gạo xuất khẩu gạo 25% tấm ở 369 USD/tấn; gạo 100% tấm ở 325 USD/tấn; gạo 5% tấm của Việt Nam giảm nhẹ 1 USD/tấn, xuống còn 399 USD/tấn.
Báo giá gạo 5% tấm của Thái Lan cũng giảm 1 USD/tấn về mức 400 USD/tấn. Tương tự, sản phẩm cùng loại của Pakistan được đưa về mức 390 USD/tấn.
Còn tại Ấn Độ, giá gạo trắng 5% tấm của nhà xuất khẩu hàng đầu thế giới giảm 5 USD/tấn, xuống còn 391 USD/tấn. Tương đương với giá gạo đồ 5% tấm chào bán của nước này.
Theo BusinessMirror đưa tin, Cơ quan Lương thực Quốc gia Philippines (NFA) cho biết giá cạnh tranh đã giúp cho cơ quan này tăng đáng kể lượng lúa thu mua trong tháng 2. Theo đó, NFA đã thu mua tổng cộng 412.052 bao 50 kg, tương đương 20.603 tấn lúa trong tháng 2, tăng mạnh so với mức 12.378 bao, tức 618,9 tấn của cùng kỳ năm 2024. Tuy nhiên, con số này vẫn không đạt được mục tiêu 429.600 bao, tương đương 21.480 tấn mà cơ quan này đặt ra.