Là người đã trực tiếp đào tạo và cung ứng hàng nghìn nhân sự chất lượng cao cho các tập đoàn FDI tại Việt Nam và khu vực châu Á, bà Trần Thị Lan, Giám đốc Công ty Cung ứng Nhân lực Việt – Hàn đã chia sẻ với Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhậpgóc nhìn về phát triển nguồn nhân lực trong Dự thảo Đầu tư Kinh doanh 2025.
![]() |
Bà Trần Thị Lan, Giám đốc Công ty Cung ứng Nhân lực Việt – Hàn |
PV: Bà đánh giá thế nào về tinh thần cải cách của Dự thảo Luật Đầu tư Kinh doanh 2025?
Chuyên gia Trần Thị Lan: Đây là một bản dự thảo thể hiện rõ tinh thần cải cách thực chất và hội nhập quốc tế. So với Luật Đầu tư 2020, Dự thảo lần này đơn giản hóa hàng loạt thủ tục hành chính, mở rộng quyền tự chủ cho nhà đầu tư, đồng thời trao thêm quyền linh hoạt cho Chính phủ trong việc điều chỉnh chính sách ưu đãi phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Đáng chú ý là chuyển đổi mô hình quản lý từ “tiền kiểm sang hậu kiểm”, tức giảm bớt rào cản ban đầu nhưng tăng cường trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp. Đây là bước tiến lớn, đặc biệt có lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp, nhóm vốn thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận môi trường đầu tư do chi phí tuân thủ cao.
PV: Theo bà, việc điều chỉnh Dự thảo sẽ ảnh hưởng như thế nào đến chính sách sử dụng lao động, nhất là trong khối doanh nghiệp FDI?
Chuyên gia Trần Thị Lan: Về tổng thể, hiện chưa có một chương riêng biệt dành cho nội dung về nhân lực trong Dự thảo. Song đã lồng ghép nhiều quy định liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư trong việc sử dụng lao động.
Đơn cử, Dự thảo quy định rõ: “Nhà đầu tư phải tuân thủ pháp luật về lao động, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.”
Điều này có nghĩa, các nội dung về hợp đồng, tiền lương, bảo hiểm, điều kiện làm việc, an toàn lao động và cấp phép cho người nước ngoài vẫn được điều chỉnh theo Bộ luật Lao động 2019.
Điểm mới đáng chú ý là Dự thảo bổ sung cơ chế ưu đãi đầu tư đặc biệt cho các dự án có hoạt động đào tạo nhân lực, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Điều này cho thấy Nhà nước đã bắt đầu coi “đầu tư vào con người” là một dạng đầu tư ưu tiên, bên cạnh đầu tư vào hạ tầng và tài chính. Dự thảo Luật Đầu tư Kinh doanh 2025 có nhiều điểm linh hoạt hơn nhằm đầu tư vào nhân lực chất lượng cao để kinh doanh bền vững.
PV: Theo bà, việc “đầu tư gắn với nhân lực” được thể hiện ra sao trong Dự thảo lần này?
Chuyên gia Trần Thị Lan: Hiện nay, các quy định mới chủ yếu mang tính khuyến khích chứ chưa có ràng buộc cụ thể. Ví dụ, quy định các dự án được hưởng ưu đãi đặc biệt nếu “gắn với đào tạo, chuyển giao công nghệ, phát triển chuỗi giá trị, đổi mới sáng tạo”. Tuy nhiên, chưa có điều khoản bắt buộc doanh nghiệp FDI phải có kế hoạch đào tạo hoặc chuyển giao kỹ năng cho lao động Việt Nam. Tôi cho rằng, để thực sự nâng chất lượng đầu tư và phát triển bền vững, luật cần có cơ chế giám sát và khuyến khích doanh nghiệp FDI đầu tư nhân lực song hành với đầu tư vốn. Đây là mô hình mà nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Singapore, Malaysia đã áp dụng thành công, giúp hình thành lực lượng lao động bản địa có kỹ năng toàn cầu.
PV: Còn đối với người lao động nước ngoài làm việc cho các doanh nghiệp tại Việt Nam thì sao, thưa bà?
Chuyên gia Trần Thị Lan: Dự thảo không trực tiếp điều chỉnh việc cấp phép lao động hay cư trú cho người nước ngoài, vì đây là phạm vi của Bộ luật Lao động 2019 và Luật Nhập cảnh, Xuất cảnh, Quá cảnh, Cư trú 2014 (sửa đổi 2020). Tuy nhiên, điểm mới về thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư là có xét đến “tác động của việc sử dụng lao động nước ngoài đối với an ninh, quốc phòng và an sinh xã hội.” Đây là bước tiếp cận cân bằng và thận trọng: tạo điều kiện để các nhà đầu tư quốc tế chủ động tuyển dụng chuyên gia nước ngoài, nhưng cũng yêu cầu cam kết tỷ lệ đào tạo kế cận cho lao động Việt Nam, nhằm giảm phụ thuộc vào nhân sự ngoại quốc trong dài hạn.
PV: Theo bà, liên quan đến nhân lực, doanh nghiệp cần lưu ý những điểm mới nào trong Dự thảo?
Chuyên gia Trần Thị Lan: Có ba điểm chính mà doanh nghiệp Việt và doanh nghiệp FDI cần chú ý.
Linh hoạt trong danh mục ngành nghề có điều kiện: Chính phủ được quyền cập nhật danh mục thường xuyên, thay vì cố định trong luật. Doanh nghiệp phải theo dõi sát để không vi phạm khi tuyển dụng nhân sự thuộc ngành nghề mới được bổ sung hoặc loại bỏ. Thay đổi về trình tự cấp phép đầu tư: Dự thảo cho phép nhà đầu tư nước ngoài được thành lập doanh nghiệp trước khi xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (IRC). Đây là bước tiến lớn, song đòi hỏi doanh nghiệp chuẩn bị sẵn đội ngũ nhân sự, hệ thống vận hành và bộ máy pháp lý phù hợp ngay từ đầu. Chính sách ưu đãi đặc biệt: Các dự án có đào tạo nhân lực, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, ESG hoặc phát triển bền vững sẽ được hưởng ưu đãi cao hơn về thuế, đất đai và thủ tục hành chính.
Đây là cơ hội để doanh nghiệp Việt tái cấu trúc nguồn lực chuyển từ “đầu tư bằng tiền” sang “đầu tư bằng tri thức”.
![]() |
Chuyên gia cho rằng định hướng phát triển mô hình cung cấp nhân lực theo hệ sinh thái gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo – ứng dụng – hội nhập quốc tế. |
PV: Với kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực nhân sự, bà có khuyến nghị gì cho doanh nghiệp Việt và doanh nghiệp FDI?
Chuyên gia Trần Thị Lan:Tôi có ba khuyến nghị lớn:
Thứ nhất, doanh nghiệp Việt cần coi nhân lực là tài sản đầu tư chiến lược. Cần chuẩn hóa quy trình đào tạo, đánh giá năng lực và xây dựng đội ngũ chuyên gia có thể làm việc xuyên quốc gia.
Thứ hai, doanh nghiệp FDI nên triển khai “chuyển giao mềm”, tức đào tạo người Việt tiếp quản dần các vị trí quản lý, kỹ thuật, thay vì phụ thuộc vào chuyên gia nước ngoài.
Thứ ba, cơ quan quản lý nên sớm hình thành “Cổng dữ liệu nhân lực đầu tư quốc gia”, liên thông giữa các Bộ, giúp kết nối cung – cầu nhân lực chất lượng cao và giám sát hiệu quả của chính sách ưu đãi nhân lực.
PV: Bà có thể chia sẻ thêm mô hình cung ứng nhân lực hiệu quả cho các doanh nghiệp mà bà đã ứng dụng thành công trong thời gian qua?
Chuyên gia Trần Thị Lan: Hiện nay, chúng tôi định hướng phát triển mô hình cung cấp nhân lực theo hệ sinh thái gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo – ứng dụng – hội nhập quốc tế. Cụ thể, Công ty đang vận hành chương trình “cầu nối nhân lực quốc tế”, trong đó nhân sự Việt Nam được đào tạo theo chuẩn toàn cầu và định hướng tham gia chuỗi cung ứng nhân lực chất lượng cao cho thị trường khu vực như Hàn Quốc, Nhật Bản và Singapore. Chúng tôi không chỉ dừng lại ở việc cung ứng lao động, mà còn tạo dựng hệ sinh thái nhân lực bền vững: từ đào tạo chuyên sâu, thực tập có lương tại doanh nghiệp, đến việc hỗ trợ du học sinh và phát triển kỹ năng toàn diện. Đây là mô hình được các tập đoàn FDI đánh giá cao và giúp Việt Nam từng bước khẳng định năng lực nhân lực trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Trân trọng cảm ơn bà!