Doanh nghiệp nhỏ và vừa cần được bảo vệ khỏi xung đột quy hoạch Thái Nguyên tạo “cú huých” công nghiệp, doanh nghiệp vươn dậy thần tốc |
Trong bối cảnh Việt Nam thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân thành một động lực quan trọng của nền kinh tế, bài toán mặt bằng sản xuất cho cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa đang trở thành vấn đề nóng. Hàng loạt chính sách đã được ban hành để hỗ trợ phân bổ quỹ đất, đẩy mạnh quy hoạch cụm công nghiệp và đơn giản hóa thủ tục hành chính, tuy nhiên, thực tế triển khai vẫn còn không ít bất cập.
Trong quá trình khảo sát tại các tỉnh công nghiệp phía Bắc như: Bắc Ninh, Hưng Yên và Thái Nguyên, phóng viên ghi nhận nhiều khu, cụm công nghiệp được phê duyệt hàng chục hecta đất nhưng gần như “án binh bất động”, trong khi doanh nghiệp nhỏ lại chật vật tìm kiếm mặt bằng sản xuất phù hợp.
![]() |
TS.Trần Xuân Lượng – Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Đánh giá thị trường Bất động sản Việt Nam |
Điểm nghẽn lớn nhất, theo đánh giá của nhiều chuyên gia, chính là sự bất cân xứng trong tiếp cận quỹ đất. Dưới danh nghĩa phát triển hạ tầng, nhiều chủ đầu tư cụm công nghiệp được trao quyền quá lớn, dẫn đến tình trạng đầu cơ đất, đẩy giá mặt bằng lên cao, gây áp lực tài chính nặng nề cho các doanh nghiệp sản xuất thực chất. Tiến sĩ Trần Xuân Lượng – Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Đánh giá thị trường Bất động sản Việt Nam – chỉ rõ, mô hình hiện tại đang biến quyền tiếp cận đất đai trở thành một cuộc đua “tiền tươi thóc thật”, nơi ai đủ sức trả giá cao hơn thì người đó thắng, bất kể năng lực sản xuất ra sao.
Trong cuộc trao đổi với Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập, TS. Trần Xuân Lượng nhấn mạnh, đã đến lúc cần thay đổi tư duy quản lý đất công nghiệp theo hướng Nhà nước đóng vai trò kiến tạo – lập quy hoạch tổng thể, ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật, công bố công khai danh mục quỹ đất, và để doanh nghiệp tự đầu tư triển khai. Việc bỏ qua khâu trung gian “chủ đầu tư hạ tầng” sẽ làm giảm méo mó thị trường, đồng thời tạo ra mặt bằng giá hợp lý hơn, gắn với hiệu quả sử dụng thay vì kỳ vọng đầu cơ.
Thực tiễn cho thấy, chi phí tiếp cận mặt bằng đang là rào cản lớn với các doanh nghiệp nhỏ và vừa – lực lượng được xem là xương sống của nền kinh tế nhưng lại thường xuyên thiếu vốn. Theo TS. Lượng, cần phải thay đổi cách hiểu về “vốn” trong chính sách giao đất. Đó không chỉ là tiền mặt, mà còn là vốn trí tuệ, công nghệ, thương hiệu, mô hình sản xuất hay cả mạng lưới đối tác. Một doanh nghiệp trẻ với ý tưởng độc đáo, sản phẩm khác biệt và thị trường tiềm năng cũng xứng đáng được hỗ trợ tiếp cận tài nguyên đất đai – yếu tố đầu vào thiết yếu để hiện thực hóa tăng trưởng.
![]() |
Cụm công nghiệp Thụy Lâm (Đông Anh, Hà Nôi). Ảnh: Minh họa |
Từ thực tiễn khảo sát tại cụm công nghiệp Tân Phú (Đồng Nai), nơi áp dụng thí điểm mô hình quy hoạch mở, không qua trung gian đầu tư hạ tầng, phóng viên ghi nhận tỷ lệ lấp đầy đạt tới 85% chỉ sau 18 tháng triển khai. Các doanh nghiệp tại đây được tự chọn nhà thầu xây dựng theo tiêu chuẩn định sẵn, giảm đáng kể chi phí ban đầu, đồng thời rút ngắn thời gian khởi sự kinh doanh. Điều này chứng minh rằng, nếu mô hình được tổ chức minh bạch, bình đẳng, doanh nghiệp nhỏ hoàn toàn có thể “cất cánh” thay vì đứng bên lề cuộc chơi.
Không chỉ hỗ trợ khởi nghiệp, việc đổi mới mô hình phát triển cụm công nghiệp còn góp phần tạo ra hệ sinh thái sản xuất gắn với đổi mới sáng tạo – nền tảng cốt lõi để nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Trong bối cảnh nền kinh tế số và chuyển đổi xanh đang trở thành xu thế chủ đạo, doanh nghiệp nhỏ với tốc độ thích ứng nhanh và mô hình linh hoạt sẽ là những “chồi non” đáng giá. Vấn đề là phải có một hệ thống thể chế, quy hoạch và chính sách đủ minh bạch để những chồi non ấy có cơ hội vươn lên thành rừng lớn.
Luật hóa những nguyên tắc quản lý đất công nghiệp minh bạch – như tinh thần của Nghị quyết số 68 – chính là một bước đi chiến lược, không chỉ để ngăn chặn hiện tượng “tát vét” đất đai trước sáp nhập địa giới, mà còn để tạo dựng niềm tin thị trường và định hình một hành lang phát triển bền vững. TS. Lượng khẳng định: “Khi mặt bằng được định giá đúng giá trị sử dụng, không bị bóp méo bởi các tầng nấc trung gian và thủ tục xin – cho, thì doanh nghiệp sản xuất thực chất sẽ có đất để làm, còn xã hội sẽ tránh được cảnh tượng cụm công nghiệp treo, đất bị bỏ hoang, trong khi doanh nghiệp nhỏ vẫn lang thang tìm chỗ đứng”.
Rõ ràng, khát vọng thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển không thể chỉ dừng lại ở nghị quyết hay tuyên bố, mà cần được thể chế hóa thành các mô hình quản lý cụ thể, nơi quyền tiếp cận đất đai – tài nguyên phát triển quan trọng bậc nhất – được phân bổ dựa trên năng lực sản xuất, chứ không phải khả năng tài chính. Khi đó, các cụm công nghiệp không chỉ là nơi đặt nhà xưởng, mà thực sự trở thành “bệ phóng” cho những doanh nghiệp nhỏ và vừa – những cánh én tạo mùa xuân cho nền kinh tế Việt Nam hiện đại và sáng tạo.