Chính sách vượt "khủng hoảng virus" cần hướng đến mục tiêu hạ thấp đường cong nhiễm dịch, bảo vệ sức khỏe doanh nghiệp, củng cố niềm tin xã hội (Ảnh IT) |
Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright khẳng định, điều quan trọng nhất trong cuộc chiến chống lại dịch bệnh Covid-19 là bảo toàn lực lượng: sự sống của người dân, sức khỏe của doanh nghiệp, của hệ thống ngân hàng – tài chính và niềm tin của người dân đối với Nhà nước để có thể chuẩn bị nền tảng hồi phục khi bước ra khỏi khủng hoảng.
Không nên chạy theo mục tiêu GDP
Tại Việt Nam, tác động nghiêm trọng của Covid-19 được phản ánh rõ nét trong số liệu thống kê quý I/2020: tăng trưởng kinh tế đạt 3,82%; tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chỉ còn 0,5%, trong khi nhập khẩu âm gần 2%; số lượng doanh nghiệp tạm dừng hoạt động để nghe ngóng tình hình, hoặc chờ giải thể tăng vọt đến 26%...
Từ những con số trên, Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh cảnh báo, nếu không có sự can thiệp hiệu quả, hiệu lực và kịp thời của Chính phủ, một số ngành kinh tế và nhiều doanh nghiệp có thể đổ vỡ, kéo theo nhiều hệ lụy nghiêm trọng về tăng trưởng, việc làm, cũng như nhiều hệ lụy xã hội tiêu cực khác.
“Yêu cầu cấp bách đối với từng quốc gia cũng như toàn thế giới là phải phản ứng nhanh nhất và hiệu lực nhất với tất cả các nguồn lực có thể có để ngăn chặn khủng hoảng y tế trở thành khủng hoảng kinh tế và thậm chí trở thành khủng hoảng tài chính và nợ công”, ông Tự Anh nhấn mạnh.
Do đó, Việt Nam không nên chạy theo GDP mà xao lãng mục tiêu chống Covid-19. Giữ tốc độ tăng trưởng không phải là mục tiêu chính yếu lúc này. “Nếu vì tiếc một vài điểm phần trăm tăng trưởng GDP mà xem nhẹ hay chấm dứt các biện pháp chống dịch Covid-19 quá sớm thì chúng ta có thể phải trả giá đắt”, chuyên gia này cảnh báo.
Chính sách phù hợp trong bối cảnh hiện nay phải đáp ứng 5 mục tiêu: Hạ thấp đường cong nhiễm dịch, bảo vệ sức khỏe doanh nghiệp, củng cố niềm tin xã hội, bồi đắp nền tảng phục hồi và hạn chế di hại tương lai.
Đặt vấn đề "Việt Nam sẽ ra khỏi khủng hoảng trong trạng thái như thế nào, điêu tàn hay với tâm thế đã có một số nền tảng nhất định để phục hồi nền kinh tế, giống như đại bàng hồi sinh từ đống tro tàn?", ông Tự Anh cho rằng câu trả lời phụ thuộc vào chính sách đưa ra hiện nay.
Dẫn chứng từ kiến nghị tạm dừng xuất khẩu gạo gần đây của Bộ Công Thương, chuyên gia này cho rằng đây là hiện tượng phản ứng chính sách quá đà có thể gây thiệt hại lâu dài. Bởi, sản lượng lúa gạo của Việt Nam vẫn đang ổn định, chỉ thấp hơn một chút so với cùng kỳ năm ngoái, dư sức để vừa đảm bảo an ninh lương thực, vừa đảm bảo xuất khẩu gạo thì chúng ta lại bỏ lỡ cơ hội xuất khẩu gạo với giá cao.
Đó là chưa kể như vậy là rất bất công đối với khu vực nông nghiệp – nông dân – nông thôn, vốn luôn là bệ đỡ của nền kinh tế Việt Nam khi rơi vào khủng hoảng. Thực tế vừa qua, rất nhiều người mất việc ở đô thị quay về nông thôn nương náu. Nếu không xuất khẩu được gạo, nông thôn sẽ bị quá tải, gánh nặng chồng chất thêm lên vai người nông dân vốn đã chịu nhiều khó khăn do thời tiết cực đoan, hạn mặn vừa qua.
3 nguyên tắc vượt "khủng hoảng virus"
Đại dịch Covid-19 tác động đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề và nhóm đối tượng, nhưng các nguồn lực của Nhà nước, từ tài chính đến hành chính và năng lực thực thi đều có hạn. Không một nhà nước nào có thể can thiệp đại trà mà phải xác lập ưu tiên để can thiệp có chọn lọc.
Quan điểm của ông Tự Anh về chính sách cần có để vượt qua “cơn khủng hoảng mang tên virus” là phải đảm bảo 3 nguyên tắc: can thiệp có mục tiêu, kịp thời và có thời hiệu rõ ràng.
Chẳng hạn, nhóm chính sách mục tiêu phải hướng đến hỗ trợ người dân, người lao động và người sản xuất, hướng đến các ngành chịu ảnh hưởng nhiều nhất của đại dịch, như ngành du lịch, lưu trú, ăn uống, ngành công nghiệp chế biến – chế tạo, cũng như hỗ trợ các loại hình, quy mô doanh nghiệp chịu ảnh hưởng nhiều nhất của đại dịch.
Khi khủng hoảng xảy ra thì tính kịp thời và tốc độ có ý nghĩa hết sức quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh cơ chế dẫn truyền chính sách của Việt Nam tương đối chậm và hiệu lực tương đối thấp, cản trở tính hiệu lực và sức mạnh của các chính sách. Điều đó có nghĩa là các chính sách phải nhanh và mạnh hơn bình thường thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu của thực tế.
Bởi vậy, trong một chừng mực nhất định, phải chấp nhận đánh đổi giữa tốc độ với hiệu quả và công bằng. Chẳng hạn như cố gắng hạn chế hiện tượng trục lợi chính sách nhưng cũng phải chấp nhận ở mức độ nào đó câu chuyện một số nhóm được hưởng lợi từ chính sách nhiều hơn những nhóm còn lại.
Mặc dù trong thời kỳ khủng hoảng, nhiều chính sách, quyết định của Nhà nước buộc phải sử dụng đến biện pháp hành chính, nhưng vẫn phải dựa vào và tuân theo quy luật thị trường bất kỳ khi nào có thể.
Huyền Anh