Khi năng lượng trở thành “con bài mặc cả” trong cuộc chơi thương mại
Sau cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu năm 2022, an ninh năng lượng một lần nữa trở thành tâm điểm của các căng thẳng địa chính trị. Tuy nhiên, lần này áp lực không đến từ châu Âu hay Nga, mà từ chính Nhà Trắng, với khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) trở thành công cụ mặc cả chiến lược trong chính sách thương mại của Tổng thống Mỹ Donald Trump.
![]() |
Châu Á mắc kẹt giữa khí đốt và thuế quan trong chiến lược ngoại giao LNG của Mỹ |
Trước thời hạn chót ngày 9/7, khi loạt thuế quan đối ứng mới dự kiến có hiệu lực, nhiều quốc gia châu Á vốn phụ thuộc lớn vào nhập khẩu LNG, phải nhanh chóng cân nhắc những bước đi chiến lược để tránh rơi vào vòng xoáy áp lực từ Washington. Theo dữ liệu của Kpler (trích dẫn bởi Reuters), lượng LNG của Mỹ xuất khẩu sang châu Á đã đạt 1,86 triệu tấn trong tháng 5/2025, mức cao nhất kể từ tháng 12 năm ngoái, và nhiều khả năng sẽ tiếp tục tăng.
Vấn đề đặt ra không chỉ là nguồn cung mà là ai sẵn sàng trả giá cao hơn, không chỉ bằng tiền bạc mà bằng cả cam kết chính trị, để duy trì vị trí “đối tác ưa thích” trong mắt Nhà Trắng.
Ý tưởng dùng LNG như một đòn bẩy địa chính trị không phải là mới. Nó manh nha từ nhiệm kỳ đầu tiên của ông Trump, với dự án Alaska LNG trị giá 44 tỷ USD được quảng bá là “cầu nối năng lượng chiến lược” tới châu Á. Song chi phí quá cao và hiệu quả tài chính không rõ ràng đã khiến các tập đoàn dầu khí lớn rút lui.
Tuy nhiên, ngay khi trở lại Nhà Trắng vào nhiệm kỳ thứ hai, ông Trump đã đảo ngược chính sách của người tiền nhiệm Joe Biden, bằng cách dỡ bỏ lệnh tạm ngừng phê duyệt các dự án xuất khẩu LNG mới. Cánh cửa lại mở ra đối với những dự án đình trệ như Alaska LNG, nhưng dự án này vẫn chưa thể huy động đủ tài chính để triển khai.
Trong bối cảnh đó, Nhật Bản là quốc gia nhập khẩu LNG nhiều thứ hai thế giới, đã phát tín hiệu sẵn sàng hỗ trợ tài chính cho dự án Alaska như một phần trong nỗ lực tránh các mức thuế mới. Thủ tướng Nhật Shigeru Ishiba dường như đang muốn “mua thời gian” cho ngành công nghiệp trong nước bằng cách đưa năng lượng vào bàn đàm phán.
Bên cạnh đó, Hàn Quốc, vốn từng bị Mỹ áp thuế nặng lên ngành thép, đang âm thầm tăng cường nhập khẩu LNG Mỹ như một “động thái thân thiện”, còn Đài Loan có kế hoạch để LNG từ Mỹ chiếm tới 75% nhu cầu khí đốt vào năm 2028. Thậm chí, Ấn Độ cũng đang tích cực đàm phán với Washington để đưa LNG Mỹ vào chiến lược cung ứng dài hạn của mình.
Điều đáng lo ngại là đằng sau các thương vụ khí đốt, nền tảng trung lập và tin cậy (vốn là trụ cột trong giao thương năng lượng quốc tế) đang bắt đầu bị xói mòn. Mỹ đang tái sử dụng “bài cũ” khi gây áp lực thương mại thông qua thâm hụt cán cân, để buộc các nước nhượng bộ theo từng ngành cụ thể.
Trong khi đó, một số quốc gia đang tìm cách giảm phụ thuộc vào các nguồn cung dễ bị chính trị hóa. Singapore gần đây đã thành lập đơn vị mua khí tập trung Singapore GasCo, nhằm bảo đảm an ninh năng lượng và chống lại rủi ro từ những đứt gãy chuỗi cung ứng mang tính địa chính trị. Qatar (với chi phí sản xuất LNG cực thấp) và Canada (với các cảng xuất khẩu hướng ra Thái Bình Dương) đang nổi lên như những lựa chọn thay thế ổn định và “phi chính trị” hơn.
Tập đoàn dầu khí quốc gia Malaysia, Petronas, mới đây cũng công bố kế hoạch đàm phán các hợp đồng dài hạn với những nhà cung cấp Bắc Mỹ như Commonwealth LNG (Louisiana), nhằm tăng cường hiện diện tại các thị trường tăng trưởng nhanh như Trung Quốc và Việt Nam. Dù không công khai lý do chính trị, động thái này phản ánh rõ ràng xu hướng tái cơ cấu chiến lược cung ứng.
Nhìn rộng hơn, vấn đề không chỉ xoay quanh LNG hay giá khí đốt. Đối với nhiều nước châu Á, bài học rút ra là sự cấp thiết của việc “miễn dịch hóa” các chuỗi cung ứng chiến lược khỏi bàn cờ chính trị. Trong một thế giới nơi tài nguyên, từ khoáng sản đất hiếm đến năng lượng, có thể bị biến thành công cụ mặc cả trong từng vòng đàm phán thương mại, việc giữ quyền kiểm soát nguồn cung đang trở thành ưu tiên số một.