![]() |
| Cảnh báo chiến lược sản xuất và thương mại lúa gạo khi Việt Nam chi 1,5 tỉ USD nhập gạo |
Tính đến cuối tháng 11/2025, Việt Nam đã xuất khẩu 7,5 triệu tấn gạo, giảm 11,5% về lượng và tới 28% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Ngược lại, nhập khẩu gạo tăng đột biến, lên tới 1,5 tỉ USD – cao hơn năm 2024 tới 200 triệu USD. Điều này khiến thặng dư thương mại từ gạo tụt mạnh, từ 4 tỉ USD xuống còn 2,3 tỉ USD.
Lâu nay, nhập khẩu gạo của Việt Nam thường mang tính chiến lược – chủ yếu nhập khẩu gạo rẻ phục vụ chế biến hoặc các phân khúc mà thị trường nội địa không cung ứng đủ. Tuy nhiên, tốc độ và quy mô tăng trưởng nhập khẩu năm 2025 vượt ngoài thông lệ, phản ánh những bất cập trong điều hành sản xuất, quy hoạch vùng nguyên liệu và định hướng xuất khẩu.
Một thực tế không thể phủ nhận là diện tích canh tác lúa tại Việt Nam đang co lại do quá trình đô thị hóa, chuyển đổi đất sang phát triển công nghiệp và cây trồng có giá trị kinh tế cao hơn. Dự báo đến năm 2030, lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam có thể chỉ còn quanh mức 5 triệu tấn – thấp hơn đáng kể so với đỉnh điểm 8 triệu tấn như các năm trước.
Bên cạnh đó, việc tập trung sản xuất theo hướng đại trà, chạy theo số lượng đã khiến gạo Việt đánh mất khả năng cạnh tranh trong phân khúc cao cấp – nơi mà biên lợi nhuận và độ ổn định cao hơn. Trong khi gạo thơm của Thái Lan đang đạt mức giá kỷ lục 726 USD/tấn thì gạo Jasmine Việt Nam chỉ quanh mức 451 USD/tấn. Khoảng cách giá này chính là khoảng cách về chiến lược giá trị.
Dự báo trong năm 2026, nguồn cung gạo toàn cầu sẽ tiếp tục dư thừa do các nước lớn như Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan đẩy mạnh sản lượng sau cơn sốt giá gạo năm 2023. Riêng Ấn Độ đã vượt Trung Quốc trở thành quốc gia sản xuất gạo lớn nhất thế giới, với sản lượng tăng thêm 4–5% mỗi năm.
Điều này đồng nghĩa, phân khúc gạo giá rẻ toàn cầu sẽ ngày càng cạnh tranh khốc liệt và Việt Nam – nếu tiếp tục chạy theo số lượng – sẽ không thể địch lại các nước có lợi thế quy mô và chính sách hỗ trợ nông nghiệp mạnh mẽ. Lối thoát duy nhất là tái cấu trúc sản xuất theo hướng giảm lượng, tăng chất, tập trung vào các dòng gạo đặc sản như Japonica, ST25, gạo thơm nhẹ, gạo hữu cơ... gắn với yêu cầu kỹ thuật và khẩu vị từng thị trường.
Câu chuyện gạo không còn chỉ nằm ở vấn đề nông nghiệp, mà đã trở thành bài toán thương mại, đầu tư và thậm chí là an ninh kinh tế. Việc nhập khẩu gạo tăng trong khi xuất khẩu giảm không chỉ làm suy yếu lợi thế thương mại, mà còn làm xói mòn vai trò của Việt Nam như một trong những "vựa lúa" lớn nhất thế giới.
Những tín hiệu từ thị trường quốc tế cho thấy: chỉ những quốc gia kiểm soát tốt chất lượng, xây dựng được thương hiệu gạo quốc gia và định vị rõ phân khúc sản phẩm mới giữ được vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu. Đề án “1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp” là hướng đi đúng nhưng cần tăng tốc và gắn kết chặt chẽ hơn với doanh nghiệp, thị trường đầu ra và hỗ trợ tài chính.