Các thị trường châu Á có thể “rung lắc” khi bầu cử Mỹ đến gần (Ảnh: AFP). |
Các đợt cắt giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có thể đánh dấu một điểm uốn quan trọng đối với các thị trường châu Á, khi động thái này sẽ giúp giảm áp lực lên các đồng tiền trong khu vực và tạo điều kiện cho việc nới lỏng chính sách tiền tệ trên diện rộng, hỗ trợ các hoạt động kinh tế và thúc đẩy giá trị tài sản.
Theo đó, sau khi Fed công bố đợt cắt giảm lãi suất 50 điểm cơ bản vào ngày 18/9, Ngân hàng Trung ương Hồng Kông đã ngay lập tức công bố một đợt cắt giảm tương tự. Trước đó vài giờ, Ngân hàng Trung ương Indonesia cũng công bố cắt giảm 25 điểm cơ bản.
Ngoài ra, các ngân hàng trung ương Thái Lan và Philippines đều công bố các đợt cắt giảm lãi suất vào đầu tháng này. Đây là đợt cắt giảm đầu tiên của Thái Lan kể từ năm 2020 và là lần thứ hai Philippines cắt giảm lãi suất kể từ tháng 8.
Tuy nhiên, các động thái này chỉ là phần bên lề so với gói kích thích lớn mà Trung Quốc công bố vào tháng trước. Thông báo ngày 24/9 về việc cắt giảm lãi suất, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho các ngân hàng, cùng với các biện pháp thúc đẩy lĩnh vực bất động sản đã làm bùng nổ chỉ số CSI 300 và chỉ số Hang Seng China Enterprises.
Dù vậy, có vẻ vẫn tồn tại sự hoài nghi về Trung Quốc và phần còn lại của khu vực trong giới quan sát thị trường. Một mối quan ngại thường trực là quy mô của gói kích thích mà Trung Quốc đã công bố có thể chưa đủ để vực dậy lĩnh vực bất động sản và nền kinh tế nói chung. Liệu sự nghi ngờ này chỉ là phản ánh của những nhà phân tích và nhà đầu tư bi quan đã bị bất ngờ bởi gói kích thích lớn vừa qua hay không? Nếu Trung Quốc tiếp tục mở rộng và tinh chỉnh các biện pháp kích thích, có khả năng các nhà đầu tư sẽ nhìn nhận các cổ phiếu đang chịu nhiều thiệt hại của nước này tích cực hơn!
Một mối lo khác là Fed có thể sẽ không cắt giảm lãi suất nhanh như kỳ vọng, dựa trên số liệu việc làm mạnh mẽ của Mỹ và dữ liệu lạm phát không đồng đều trong những tuần gần đây. Kể từ khi Fed cắt giảm lãi suất vào tháng trước, lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ đã phục hồi trong khi đồng USD cũng đã mạnh lên.
Thị trường cũng bị dao động bởi những thay đổi trong xác suất về người sẽ trở thành chủ nhân tiếp theo của Nhà Trắng, bà Kamala Harris hay ông Donald Trump, và các chính sách của họ có thể ảnh hưởng gì đến nền kinh tế Mỹ và thương mại toàn cầu.
Biến động tại châu Á
Theo các chuyên gia, các thị trường châu Á vẫn đang ở điểm uốn, ngay cả khi tốc độ cắt giảm lãi suất của Fed chậm hơn kỳ vọng.
Không chỉ lãi suất thấp hơn của Mỹ sẽ thúc đẩy dòng vốn đến châu Á, mà còn có sự chênh lệch về quỹ đạo tăng trưởng kinh tế, cùng với tâm lý tích cực chung trên thị trường toàn cầu.
Ngay cả sau đợt cắt giảm lãi suất lớn của Fed vào tháng trước, chính sách của họ vẫn được coi là hạn chế. Ngược lại, thông báo kích thích lớn của Trung Quốc rõ ràng là đang thúc đẩy kinh tế.
Khi tăng trưởng kinh tế Mỹ chậm lại và lãi suất cuối cùng cũng giảm, có khả năng dòng vốn sẽ chảy vào các thị trường trong khu vực này. Rủi ro lớn nhất cho các nhà đầu tư tại châu Á là khả năng tăng trưởng kinh tế toàn cầu giảm mạnh, kéo dòng vốn trở lại các trái phiếu chính phủ Mỹ và các tài sản an toàn khác.
Điều gì có thể gây ra rủi ro này? Một khả năng là nền kinh tế Mỹ “hạ cánh cứng”. Một khả năng khác là một sự kiện địa chính trị nào đó có thể gây gián đoạn thương mại. Điều này đưa chúng ta chú ý tới cuộc bầu cử Mỹ, và những chính sách của Trump và Harris có thể ảnh hưởng như thế nào đến các thị trường tại châu Á.
Cả hai ứng viên đều không phải là những người ủng hộ tự do thương mại và có khả năng sẽ cứng rắn với Trung Quốc. Nhưng ông Trump có thể sẽ hành động mạnh tay hơn. Ông này đã từng đề xuất áp dụng mức thuế nhập khẩu chung lên tới 20%, và thuế đối với Trung Quốc có thể lên tới 60%.
Điều này sẽ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng tại châu Á và có khả năng thúc đẩy lạm phát tại Mỹ. Theo đó, nó sẽ làm chậm lại tốc độ cắt giảm lãi suất của Fed và có thể khiến đồng USD giữ vững giá trị.
Một số nhà phân tích cho rằng các kế hoạch chi tiêu thuế và tài khóa của cả Trump và Harris, dù rất khác nhau về chi tiết, nhưng cuối cùng sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách lớn hơn cho Mỹ và gia tăng nợ công. Điều này có thể sẽ làm tăng lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ dài hạn theo thời gian.
Dù triển vọng dài hạn của các thị trường châu Á vẫn tích cực, theo quan điểm của tác giả, các nhà đầu tư có lẽ nên chuẩn bị cho sự biến động tăng cao hơn khi cuộc đua vào chức tổng thống Mỹ bước vào giai đoạn nước rút.
Người thắng, kẻ thua tại Mỹ
Không chỉ các thị trường châu Á đang treo trên lằn ranh khi người Mỹ đi bầu cử. Kết quả của cuộc bầu cử cũng có thể có tác động lớn đến một số công ty hàng đầu tại Mỹ.
Chẳng hạn, ông Trump được cho là ủng hộ việc giảm quy định hơn bà Harris. Nếu ông thắng, điều này có thể là tin tốt cho các công ty dầu khí lớn và các tập đoàn dịch vụ tài chính lớn. Ngược lại, chiến thắng của bà Harris có thể là tin xấu cho cả hai lĩnh vực này, nhưng lại là tin tốt cho các công ty trong lĩnh vực năng lượng tái tạo.
Cả hai ứng viên dường như đều không mấy thân thiện với các công ty công nghệ lớn hay các ngành chăm sóc sức khỏe và dược phẩm.
Nhìn một cách rộng hơn, khuynh hướng cắt giảm thuế doanh nghiệp của Trump cho thấy cổ phiếu Mỹ có thể sẽ khởi sắc hơn nếu ông thắng, so với bà Harris. Tuy nhiên, sự ác cảm rõ ràng của Trump đối với nhập cư có thể gây ra thách thức dài hạn đối với tăng trưởng kinh tế Mỹ.
Trong bối cảnh này, một chiến lược mà các nhà đầu tư có thể áp dụng là tập trung vào các công ty Mỹ không bị ảnh hưởng nhiều bởi chính sách của bất kỳ ứng viên nào. Một chiến lược khác là tập trung vào các công ty Mỹ uy tín, chất lượng cao có khả năng chuyển chi phí kinh doanh cao hơn cho khách hàng.
Dù chiến lược nào để điều hướng thay đổi trong chính quyền sắp tới, các nhà đầu tư cũng nên lưu ý đến định giá cao tại một số phân khúc của thị trường Mỹ sau nhiều năm tăng trưởng mạnh mẽ.
Theo đó, một chiến lược gia tại Goldman Sachs đã gây chấn động tuần trước khi ông nói rằng S&P 500 có thể chỉ đạt mức lợi nhuận hàng năm 3% trong 10 năm tới. Chỉ số S&P 500, gần đây được dẫn dắt bởi một nhóm rất nhỏ các công ty công nghệ lớn, đã đạt mức lợi nhuận hàng năm 13% trong thập kỷ qua.