Theo CEO WiGroup Trần Ngọc Báu, vấn đề này sẽ tác động đến một số nhóm ngành như:
Thứ nhất, là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu bao gồm nông, thủy sản, dệt may,... Trong đó, chúng ta không chỉ quan tâm đến tỷ giá VND/USD mà còn phải xem cả tỷ giá của đối thủ cạnh tranh trên thị trường như đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc, vì đây là một đối thủ cạnh tranh lớn của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực. Đồng thời, cần bóc tách được mỗi nhóm ngành nhập khẩu nguyên liệu từ đâu để sản xuất và xuất khẩu ra nước ngoài, khi đó mới tính toán được mức độ hưởng lợi hay không hưởng lợi.
Thứ hai, với doanh nghiệp đi vay bằng ngoại tệ thường sẽ có khoảng 3 khoản mục trong báo cáo thu nhập đó là: Đánh giá lại tài sản gốc ngoại tệ; Chênh lệch tỷ giá chưa thực hiện; và Chênh lệch tỷ giá đã thực hiện. Vì thế sẽ bám theo các tài sản bằng nợ gắn với đồng USD hoặc đồng tiền khác. Nếu VND tăng giá so với các đồng tiền khác mà giả sử doanh nghiệp đi vay bằng yen Nhật hoặc Euro thì có lợi, còn đi vay bằng USD thì sẽ lỗ trong báo cáo thu nhập. Hiện đã có một loạt doanh nghiệp đã ghi nhận lỗ không bằng tiền do tỷ giá biến động.
Thứ ba, là nhóm doanh nghiệp có chứa nhiều tiền gửi, có thể kể đến các doanh nghiệp có dòng tiền mạnh như VEA, DSN, DVP,... - những “ông vua” trong thị trường ngách cực kỳ ổn định với tổng tài sản 90% là tiền và tiền gửi. Khi lãi suất tăng, những doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào lượng tiền gửi trong tổng tài sản sẽ được hưởng lợi. Bên cạnh đó là doanh nghiệp bảo hiểm, kiếm tiền nhiều từ chênh lệch tiền gửi ngay cả khi hoạt động kinh doanh chính lỗ.
Thứ tư, các doanh nghiệp kinh doanh tiền như ngân hàng sẽ chịu thiệt hại, bởi vì lãi suất huy động tăng nhưng lãi suất cho vay tăng chậm hơn do bị ghìm bởi các chính sách. Từ đó dẫn đến NIM của hệ thống ngân hàng có thể giảm nhẹ trong thời gian tới, mà NIM là một trong những thứ tác động khá nhiều đến lợi nhuận từ khối kinh doanh tiền của ngân hàng. “Nếu tăng trưởng tín dụng không thực sự phát triển mạnh được mà NIM suy giảm nhẹ hoặc đi ngang, thì tốc độ phát triển của khối ngân hàng sẽ đi ngang”.
Thứ năm, những doanh nghiệp phụ thuộc vào thị trường chứng khoán và bất động sản chắc chắn sẽ bị tiêu cực vì khối ngoại rút tiền về; hay khi tăng lãi suất thì trong nước cũng rút tiền về khiến dòng tiền biến mất khỏi thị trường chứng khoán và bất động sản. Trong khi những công ty chứng khoán cầm rất nhiều tài sản tài chính ở mục tự doanh, còn ở bất động sản cầm nhiều hàng tồn kho, thậm chí dùng vay nợ để bổ trợ cho hàng tồn kho đó.
Thứ sáu, là doanh nghiệp đi vay bằng nội tệ. Việc tăng lãi suất để kìm đà tăng giá của “đô-đồng” sẽ tác động tiêu cực lên chi phí đi vay của doanh nghiệp Việt Nam. Những doanh nghiệp nào có yếu tố đầu ra đang khó khăn nhưng đầu vào lại tăng nhiều như bất động sản hay thép, vì các doanh nghiệp này tài sản khá nhiều dùng bằng vay nợ.
“Những phân tích này chỉ phù hợp trong 3 tháng tới, còn từ năm 2023 trở đi có thể bối cảnh sẽ khác và các thông tin sẽ được cập nhật theo tình hình mới. Do đó, mọi đánh giá, lựa chọn, quyết định đầu tư đều cần chú trọng yếu tố “timing” đó là tính thời gian, thời điểm”, ông Báu giải thích.
P.V