Nghị định 58 hướng dẫn Luật Điện lực sửa đổi đã quy định chi tiết về điều kiện và ưu đãi nhằm thúc đẩy phát triển điện gió ngoài khơi. Theo đó, các doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư hoặc tham gia đấu thầu dự án điện gió ngoài khơi phải có kinh nghiệm phát triển ít nhất một dự án tương tự trong hoặc ngoài nước. Họ có thể đầu tư trực tiếp hoặc góp vốn với tỷ lệ tối thiểu 15%, trong đó vốn chủ sở hữu phải chiếm ít nhất 20% tổng vốn góp.
![]() |
Theo quy định của Chính phủ, các doanh nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài tham gia phát triển dự án điện gió ngoài khơi tại Việt Nam phải góp ít nhất 15% tổng mức đầu tư và không được sở hữu quá 95% vốn góp. |
Trường hợp không tham gia góp vốn, nhà đầu tư cần có kinh nghiệm trong quản lý dự án, thiết kế hoặc thi công. Nếu đầu tư theo hình thức liên danh, kinh nghiệm sẽ được tính trên tổng năng lực của các thành viên. Ngoài ra, nhà đầu tư nước ngoài phải cam kết sử dụng nhân lực, hàng hóa, dịch vụ trong nước, đồng thời đảm bảo tính cạnh tranh về giá cả, chất lượng và tiến độ thực hiện.
Chính phủ cũng yêu cầu các dự án điện gió ngoài khơi có sự tham gia của doanh nghiệp trong nước với tỷ lệ sở hữu tối thiểu 5% vốn điều lệ. Doanh nghiệp này phải có ít nhất 50% vốn nhà nước hoặc hoàn toàn thuộc sở hữu nhà nước, đồng thời từng phát triển ít nhất một dự án năng lượng đang vận hành tại Việt Nam hoặc nước ngoài.
Về ưu đãi, các dự án điện gió ngoài khơi sẽ được hưởng cơ chế khuyến khích nếu được cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư trước năm 2031. Riêng các dự án cung cấp điện cho hệ thống quốc gia cần thuộc 6.000 MW đã được quy hoạch.
Chính phủ cũng đưa ra các chính sách hỗ trợ tài chính, bao gồm:
-Miễn tiền sử dụng khu vực biển trong tối đa 3 năm kể từ ngày khởi công, sau đó giảm 50% trong 12 năm tiếp theo.
-Miễn tiền sử dụng đất và tiền thuê đất trong 3 năm đầu từ khi khởi công, các giai đoạn sau áp dụng theo quy định hiện hành.
-Đảm bảo sản lượng hợp đồng tối thiểu 80% trong thời gian trả nợ gốc nhưng không quá 15 năm, trừ khi có thỏa thuận khác.
Sau khi hết thời gian hưởng ưu đãi, dự án sẽ áp dụng cơ chế theo quy định pháp luật hiện hành. Đối với các dự án được chấp thuận đầu tư sau năm 2030, mức ưu đãi sẽ theo quy định tại thời điểm phê duyệt.
Về diện tích sử dụng, mỗi MW công suất điện gió ngoài khơi được phép khảo sát trên diện tích tối đa 20 héc-ta, trong khi diện tích triển khai thực tế tối đa là 5 héc-ta/MW.
Trước đó, theo điều chỉnh Quy hoạch điện VIII, Bộ Công Thương đề xuất lùi thời gian phát triển nguồn điện gió ngoài khơi đến sau năm 2030, với mục tiêu đạt khoảng 17.000 MW vào năm 2035. Nguyên nhân là do chi phí đầu tư xây dựng loại hình điện này vẫn cao. Ban đầu, Bộ Công Thương dự kiến phát triển 6.000 MW điện gió ngoài khơi đến năm 2030, tuy nhiên kế hoạch đã được điều chỉnh lùi 5 năm.
Trong giai đoạn trước mắt, Việt Nam sẽ tập trung phát triển điện gió trên bờ và gần bờ, với tổng công suất dự kiến đạt từ 27.791 MW đến 34.667 MW vào năm 2030, tăng 3.949 - 5.321 MW so với quy hoạch ban đầu.
Việt Nam hiện đang sở hữu một lợi thế rất lớn để khai thác năng lượng ngoài khơi, trong đó có năng lượng gió với bờ biển dài và điều kiện tự nhiên thuận lợi với khoảng hơn 3.000 km bờ biển, trải dài từ Bắc vào Nam. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), tiềm năng điện gió ngoài khơi của Việt Nam ước tính khoảng 600.000 MW và nguồn năng lượng này có thể cung cấp tới 12% tổng sản lượng điện quốc gia vào năm 2035. |