Các chuyên gia phân tích quốc tế cho biết, mặc dù tốc độ tăng trưởng được dự kiến có thể chậm lại thậm chí hơn vào năm 2024, nhưng có vẻ như điều tồi tệ nhất đã qua và những trở ngại dự kiến sẽ giảm bớt.
Dự kiến rằng lãi suất cao sẽ tiếp tục giảm, mặc dù lạm phát, mặc dù có chiều hướng giảm, vẫn chưa đạt được mục tiêu 2% của hầu hết các ngân hàng trung ương trên thế giới.
Nhiều chuyên gia phân tích kỳ vọng rằng biện pháp chính sách tiền tệ quan trọng tiếp theo của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ vào năm 2024 có thể là cắt giảm lãi suất, mặc dù họ vẫn chia rẽ về thời điểm Fed có thể thực hiện cắt giảm lãi suất và độ giảm bao nhiêu điểm cơ bản mà cơ quan quản lý có thể thực hiện.
Mặc dù việc lạm phát và giảm lãi suất có chiều hướng là những dấu hiệu tích cực cho sự tăng trưởng trong nửa cuối năm tới, nhưng vẫn tồn tại rủi ro có thể gây trở ngại cho sự gia tăng kinh tế.
Các yếu tố như căng thẳng địa chính trị, tình hình kinh tế của Mỹ và Trung Quốc, biến động giá dầu, chênh lệch tăng trưởng ngày càng gia tăng, mức nợ toàn cầu đáng lo ngại và chi phí khí hậu gia tăng đều là những yếu tố quyết định liệu nền kinh tế toàn cầu có thể đạt được sự ổn định vào năm tới hay không.
Lo ngại về suy thoái kinh tế trải dài
Toàn bộ năm nay được đặt dấu hiệu bởi sự tăng trưởng chậm rãi và đồng loạt với những động đất chính trị đặc biệt và một cuộc khủng hoảng ngân hàng đột ngột, đe dọa đến sự chệch hướng của sự tăng trưởng. Chính sách tiền tệ mạnh mẽ nhất trong nhiều thập kỷ để kiểm soát lạm phát cũng làm gia tăng khó khăn.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế dự kiến tăng trưởng kinh tế toàn cầu chỉ ở mức 3% trong năm nay, chậm hơn so với 3,5% năm 2022, và vẫn thấp hơn so với mức tăng trưởng trung bình lịch sử của thế giới, theo Báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới vào tháng 10.
Trong năm tới, dự kiến tổng sản phẩm quốc nội toàn cầu sẽ tăng 2,9% theo IMF, trong khi Ngân hàng Thế giới dự đoán 2,4%, và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế ước tính ở mức 2,7%.
IMF và Ngân hàng Thế giới đều dự đoán rằng tăng trưởng sẽ vẫn chậm và không đồng đều, đặc biệt ở các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển.
Trong báo cáo Triển vọng năm 2024, Cố vấn toàn cầu của State Street dự đoán: “Nhìn vào năm 2024, chúng tôi dự đoán sự bất ổn sẽ tiếp tục tồn tại, với xu hướng tăng trưởng phụ được dự báo trên khắp các nền kinh tế thế giới”.
“Mặc dù con đường hạ cánh mềm mại có vẻ khả thi, với tốc độ tăng trưởng giảm tốc nhưng không sụp đổ, tác động của việc thắt chặt chính sách tiền tệ vẫn đang tác động đến hệ thống.”
Ngoài ra, căng thẳng địa chính trị leo thang và những biến động kinh tế vĩ mô sẽ tiếp tục đặt thách thức cho các nền kinh tế, và năm 2024 "có thể sẽ là một năm đầy biến động với nhiều yếu tố cản trở con đường phục hồi toàn cầu," theo State Street, một trong những nhà quản lý tài sản lớn nhất thế giới.
Mặc dù tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự kiến sẽ chậm hơn trong năm tới, nhưng có vẻ khó có khả năng đối mặt với suy thoái.
"Năm ngoái, có nhiều lo ngại về một cuộc suy thoái dự kiến sẽ xảy ra trong năm nay," chuyên gia kinh tế toàn cầu tại JP Morgan, Nora Szentivanyi, cho biết, "nhưng cuộc suy thoái đó không những không xảy ra mà còn khiến chúng ta đạt mức tăng trưởng GDP cao hơn tiềm năng."
Tính đến quý 4 năm nay, nền kinh tế toàn cầu đang đạt mức tăng trưởng 2,8% so với cùng kỳ năm trước.
Szentivanyi nói: "Tôi nghĩ chúng ta có thể nói một cách an toàn rằng nền kinh tế toàn cầu đã trải qua một năm kiên cường hơn rất nhiều so với dự đoán, nhờ vào các yếu tố cơ bản mạnh mẽ của khu vực tư nhân - bảng cân đối kế toán lành mạnh và một chút hỗ trợ từ chính phủ."
Tuy nhiên, bất chấp những tiến bộ gần đây, "con đường dẫn đến một nền kinh tế mềm mại vẫn còn nhiều thách thức," Michael Strobaek, Giám đốc đầu tư tại ngân hàng tư nhân Thụy Sĩ Lombard Odier, cho biết.
"Evidence lịch sử phản đối việc loại trừ khả năng xảy ra suy thoái kinh tế, nhưng chúng tôi không tin rằng Mỹ sẽ chứng kiến sự suy thoái nghiêm trọng lần này."
Một trong những mối quan tâm hàng đầu trong năm tới là địa chính trị lớn hơn có thể làm gia tăng rủi ro kinh tế sau các sự kiện như cuộc chiến Israel-Gaza hoặc mối quan hệ Mỹ-Trung xấu đi.
William Davies, giám đốc đầu tư toàn cầu của công ty quản lý tài sản Columbia Threadneedle Investments, cho biết: "Chúng tôi nghĩ rằng những mối nguy hiểm lớn hơn vào năm 2024 sẽ là địa chính trị, có nhiều khả năng khiến kỳ vọng đi chệch hướng."
"Những áp lực này tác động trực tiếp đến các công ty, vì việc tìm kiếm nguồn cung cấp năng lượng thay thế hoặc xây dựng chuỗi cung ứng mới sẽ rất tốn kém."
Davies nói rằng nền kinh tế toàn cầu "dường như đang đi trên con đường được dẫn dắt bởi mức tăng trưởng thấp hoặc thậm chí chậm lại, lạm phát giảm và lãi suất cao."
Tuy nhiên, những người hoài nghi nghĩ rằng cuộc suy thoái sâu hơn có thể xảy ra do lãi suất cao kéo dài.
Davies nói: "Các nhà đầu tư nên chuẩn bị cho con đường trung gian giữa những kết quả đó, mà tôi nghĩ là kịch bản có thể xảy ra nhất trong sáu tháng tới".
Triển vọng về lạm phát và lãi suất
Trong tháng 11, tỷ lệ lạm phát của Hoa Kỳ đã giảm, nhưng vẫn cao hơn so với một số kỳ vọng của thị trường, làm giảm đi hi vọng về việc Ngân hàng Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ thực hiện cắt giảm lãi suất trong đầu năm tới.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã tăng 0,1% trong tháng trước đó. Trong kỳ tính toán hàng năm, tỷ lệ lạm phát đã tăng lên 3,1%, giảm so với mức 3,2% của tháng 10.
Chỉ số CPI cơ bản đã tăng 4% mỗi năm, duy trì ổn định so với tháng 10.
Tại cuộc họp chính sách cuối cùng trong năm, Fed quyết định duy trì lãi suất ở mức 5,4%, đây là mức lãi suất cao nhất trong vòng 22 năm, tăng từ mức gần như là 0 vào tháng 3 năm trước. Tuy nhiên, ngân hàng trung ương đã chỉ ra rằng họ dự kiến sẽ thực hiện cắt giảm lãi suất nhiều lần trong năm tới.
Ipek Ozkardeskaya, một nhà phân tích cấp cao tại Swissquote Bank, cho biết: "Dựa trên hoạt động thị trường tương lai của Fed, dường như Fed sẽ bắt đầu cắt giảm lãi suất nhẹ nhàng vào tháng 5; khả năng này được đánh giá là khoảng 75%, ít hơn một chút so với 80% trước khi có chỉ số CPI [mới nhất]."
Theo ông Strobaek, lãi suất có vẻ sẽ duy trì ở mức cao ít nhất đến nửa đầu năm 2024, và Ngân hàng Trung ương Châu Âu có thể là ngân hàng đầu tiên thực hiện cắt giảm lãi suất trong nửa giữa năm nay, sau đó là Fed sẽ thực hiện cắt giảm vào tháng 9.
Lawrence Golub, Giám đốc điều hành của Golub Capital, cho rằng lạm phát ở Mỹ sẽ tiếp tục ở mức thấp. Ông nói: "Chúng tôi tin tưởng rằng lạm phát được báo cáo ở Mỹ sẽ tiếp tục ở mức thấp, có thể không đạt đến 2% như là mục tiêu của Cục Dự trữ Liên bang, nhưng nói chung là hướng đi đó."
Ông Golub cũng nhấn mạnh rằng trong bối cảnh sắp tới của cuộc bầu cử tổng thống và tình hình chính trị, Fed có vẻ không muốn tham gia vào cuộc tranh luận chính trị. Ông dự đoán: "Trừ khi có bất ngờ với chỉ số CPI, họ chắc chắn sẽ phải thực hiện cắt giảm lãi suất và có thể thậm chí là nhiều lần."
Lo ngại về nhu cầu đang gây áp lực lớn lên thị trường dầu
Mặc dù giá dầu Brent đã giảm gần 8% từ đầu năm, xuất hiện nhiều yếu tố góp phần vào tình trạng này. Việc giảm cung của liên minh Opec+ và mức tiêu thụ dầu thô kỷ lục của Trung Quốc không đủ để đối phó với những lo ngại về sự không tuân thủ sản xuất của một số quốc gia và mối lo ngại rằng Opec+ có thể chấm dứt chính sách cắt giảm sản lượng trong quý hai.
Ngày 30 tháng 11, liên minh Opec+ đã thông báo kế hoạch cắt giảm sản lượng tự nguyện 2,2 triệu thùng mỗi ngày trong quý đầu tiên năm 2024. Tuy nhiên, các nhà phân tích cảnh báo rằng với sự giảm thanh khoản thị trường khi năm kết thúc, giá dầu có thể tiếp tục dao động và không loại trừ khả năng giảm sâu hơn.
Sự xuất hiện của sản lượng kỷ lục ở Mỹ và nguồn cung dầu từ Iran cũng đang giảm bớt lo ngại về sự thắt chặt của thị trường dầu trong quý 4. MUFG, ngân hàng lớn nhất Nhật Bản, dự báo năm 2024 sẽ là năm cân bằng với xu hướng giảm giá, nhưng thị trường vẫn sẽ được hỗ trợ bởi nguyên tắc cơ bản vi mô "chặt chẽ" và chính sách cắt giảm của Opec+.
Trong khi đó, Opec dự kiến nhu cầu dầu sẽ tăng thêm 2,2 triệu thùng/ngày trong năm tới, gần gấp đôi ước tính của Cơ quan Năng lượng Quốc tế. Ông Giovanni Staunovo của UBS lưu ý rằng mặc dù giảm giá có thể tiếp diễn, nhưng thị trường dầu toàn cầu vẫn sẽ được hỗ trợ bởi những nguyên tắc cơ bản và khả năng đối phó với những biến động tiêu cực từ nguồn cung. Trong khi đó, giá khí đốt tự nhiên dự kiến sẽ ổn định do tồn kho khí đốt ở châu Âu cao và tăng trưởng nhu cầu ở Mỹ thấp hơn. Hợp đồng tương lai khí đốt của Hà Lan, một chỉ số quan trọng ở châu Âu, đã giảm khoảng 60% kể từ đầu năm và dự kiến sẽ duy trì sự ổn định trong năm tới.
Thị trường chứng khoán đang đối mặt với điều gì trong tương lai?
Năm nay đến nay, có thể nói là một năm xuất sắc đối với các nhà đầu tư cổ phiếu, đặc biệt sau một năm 2022 khá khó khăn. Cổ phiếu trên các thị trường phát triển đã tăng gần 20%, tạo ra một lợi nhuận toàn cầu tích lũy đến thời điểm hiện tại.
Mathieu Racheter, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu chiến lược vốn cổ phần tại Julius Baer, cho biết: “Điều này cho thấy, khi nhìn sâu vào, đợt phục hồi chủ yếu là kết quả của sự tăng trưởng mạnh mẽ của một số cổ phiếu công nghệ lớn tại Mỹ”.
Theo ông, nhóm được gọi là “7 tuyệt vời” - Alphabet, Amazon, Apple, Meta, Microsoft, Nvidia, Tesla - đã đóng góp mạnh mẽ vào sự ổn định của thị trường chứng khoán trong năm nay.
Ông nói: “Sau những thành công xuất sắc, sự đồng thuận dường như đã chuyển từ kỳ vọng vào một sự đảo chiều trung bình, tức là các phần còn lại của thị trường sẽ đuổi kịp và hoạt động tốt hơn trong năm 2024”.
“Chúng tôi không đồng ý với quan điểm đó và tin rằng hiệu suất xuất sắc sẽ tiếp tục sau năm 2023.”
Tuy nhiên, mặc dù là một năm xuất sắc, các nhà đầu tư vẫn sẽ chặt chẽ theo dõi các yếu tố địa chính trị có thể làm thay đổi hướng đi của cổ phiếu trong năm tới.
Chính sách tiền tệ và tăng trưởng kinh tế sẽ tiếp tục là động lực chính của thị trường tài chính trong năm 2024. Tuy nhiên, ông Strobaek cũng nêu rõ: “Chúng tôi không đánh giá thấp những rủi ro từ các yếu tố địa chính trị, năng lượng, cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc, cũng như cuộc bầu cử tổng thống Mỹ có mức độ phân chia lớn, rủi ro cao”.
“Cổ phiếu có thể nhận được sự hỗ trợ từ tăng trưởng thu nhập ở mức đơn số và cắt giảm lãi suất trong nửa cuối năm 2024, nhưng tốc độ tăng trưởng đang giảm và việc định giá nói chung có vẻ đòi hỏi sự chặt chẽ hơn so với các loại tài sản khác”.
“Thị trường chứng khoán có thể mang lại lợi nhuận tích cực - mặc dù biến động cao - trong giai đoạn cuối của chu kỳ kinh tế. Một kịch bản như vậy sẽ phản ánh sự gia tăng dần dần của các chỉ số vốn chủ sở hữu, nhưng cũng phản ánh sự thiên vị về chất lượng do sự không chắc chắn kéo dài trong bối cảnh kinh tế vĩ mô.”
Trong khi đó, điều kiện tài chính hạn chế và tăng trưởng chậm lại dự kiến sẽ tiếp tục tạo áp lực cho các doanh nghiệp nợ nhiều, bao gồm cả một số chính phủ, theo đánh giá của Lombard Odier.
Ông Strobaek cũng thêm: “Chúng tôi cho rằng trái phiếu đang đại diện cho một trong những cơ hội có rủi ro điều chỉnh mạnh mẽ nhất trong thời gian chúng tôi dự đoán sẽ có nhiều biến động vào năm 2024”.
Những chi phí liên quan đến biến đổi khí hậu
Trong mọi cuộc thảo luận về sự phát triển kinh tế, một yếu tố quan trọng đang chiếm vị trí trung tâm toàn cầu là chi phí gia tăng do những biến đổi khí hậu gây ra.
Theo Deloitte, nếu không có sự kiểm soát, biến đổi khí hậu có thể đe dọa gây tổn thất tới 178 nghìn tỷ USD trong vòng 50 năm tới, hoặc giảm 7,6% GDP toàn cầu chỉ trong năm 2070.
Hội nghị khí hậu Cop28 tại Dubai đặc biệt nhấn mạnh vào những nỗ lực đầu tư lớn cần thiết để mở rộng quy mô tài trợ khí hậu toàn cầu. Theo Sáng kiến Chính sách Khí hậu, đến năm 2030, các thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển sẽ cần 2,4 nghìn tỷ USD mỗi năm để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu.
Tại hội nghị thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc, UAE đã giới thiệu một quỹ trị giá 30 tỷ USD cho năng lượng sạch, được hỗ trợ bởi các nhà đầu tư tổ chức lớn như BlackRock, Brookfield và TPG. Số tiền này sẽ được cấp cho một phương tiện đầu tư mới, Alterra, với mục tiêu huy động 250 tỷ USD trên toàn cầu trong vòng sáu năm tới để tạo ra một hệ thống tài chính khí hậu công bằng hơn.
Tuy nhiên, thách thức vẫn rất lớn. Công ty tư vấn Wood Mackenzie đã báo cáo trong một nghiên cứu rằng: "Chúng tôi đang cố gắng xem làm thế nào nguồn tài chính cho các nỗ lực giảm thiểu và thích ứng, mà có thể tiêu tốn từ 4 nghìn tỷ đến 5 nghìn tỷ USD mỗi năm, có thể được cung cấp nhanh chóng với chi phí phải chăng". Báo cáo cũng chỉ ra rằng sự tăng lên hiện nay về chi phí phát triển năng lượng tái tạo, do chi phí vốn cao và tắc nghẽn trong chuỗi cung ứng, đang đặt ra những thách thức thêm vào tình hình.
Quốc Anh t/h