Sau triều đại nhà Hồ (năm 1407), nước Đại Việt rơi vào ách đô hộ của nhà Minh. Với tinh thần yêu nước, căm thù giặc, năm 1416 tại Lũng Nhai, Lê Lợi đã cùng 18 vị tướng tài tâm phúc mở Hội thề quyết tâm chống lại giặc Minh, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ cho Nhân dân. Lời thề thiêng liêng đã lan tỏa và thu hút anh hùng hào kiệt từ mọi miền đất nước tìm về Lam Sơn tụ nghĩa. Ngày mùng 2 Tết năm Mậu Tuất (1418) tại vùng rừng núi Lam Sơn, dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ.
Trải qua 10 năm “nếm mật nằm gai”, năm 1428 cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã giành toàn thắng, quân xâm lược bị quét ra khỏi bờ cõi, nền độc lập dân tộc được khôi phục. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã tạo nên một trong những mốc son đỉnh cao trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc ta; trở thành biểu tượng cho lòng yêu nước nồng nàn, ý chí anh dũng, quật cường và quyết tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược của Nhân dân ta trong thời kỳ phong kiến.
Sau khi đất nước thái bình, tháng 4 năm Mậu Thìn 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Thuận Thiên, khôi phục quốc hiệu Đại Việt và lập nên vương triều Hậu Lê kéo dài hơn 360 năm. Đây là thời kỳ nước Đại Việt được hồi sinh và trở thành một quốc gia cường thịnh vào bậc nhất ở Đông Nam Á nửa sau thế kỷ XV.
Cùng với việc xây dựng Đông Kinh (Thăng Long) là kinh đô đất nước, Lam Kinh cũng được đổi thành Tây Kinh. Ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu 1433, Vua Lê Thái Tổ băng hà và được đưa về an táng tại Vĩnh Lăng đất Lam Sơn và khu điện miếu Lam Kinh cũng được bắt đầu xây dựng từ đây. Di tích Lam Kinh bao gồm nhiều hạng mục công trình kiến trúc phục vụ chức năng tín ngưỡng, tri ân tổ tiên nhà Lê, là nơi an nghỉ của các vua và hoàng thái hậu nhà hậu Lê, với hệ thống cảnh quan tạo ra sự hài hòa trong một không gian kiến trúc gắn bó mật thiết với thiên nhiên.
Với những giá trị nổi bật, ngày 27-9-2012 di tích Lam Kinh đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt.
Ngày nay, khu di tích đã được đầu tư nguồn lực lớn để phục vụ công tác bảo tồn và phát huy giá trị. Nhờ đó, nhiều hạng mục công trình quan trọng của khu di tích đã được phục dựng. Đồng thời có 5 bia ký được công nhận bảo vật quốc gia; 18 cây được công nhận cây di sản; phân loại và vào sổ đăng ký 7 bộ sưu tập gồm: gốm, sành, gạch, ngói, vật liệu trang trí kiến trúc, kim loại; sưu tầm được 1.031 hiện vật gốc…
Sau màn đánh trống khai hội của đồng chí Đỗ Trọng Hưng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, nghi lễ đọc chúc văn tấu cáo, tưởng nhớ công lao của Đức Thái Tổ Cao hoàng đế, các vị vua, hoàng thái hậu nhà Lê, công thần và các tướng sĩ nghĩa quân Lam Sơn đã diễn ra trang trọng tại sân rồng trước Chính điện Lam Kinh. Sau nghi lễ là chương trình nghệ thuật với chủ đề “Hào khí Lam Sơn - tỏa sáng trường tồn”.
Chương trình được dàn dựng công phu, giàu tính biểu tượng và tính nghệ thuật, với các phần: “Hào khí Lam Sơn - Anh hùng tụ nghĩa”; “Bình Định Vương đăng quang Hoàng đế”; “Tiếp bước cha ông, Thanh Hóa trên đường đổi mới”. Qua đó, tái hiện sinh động một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc cùng công lao to lớn của Anh hùng dân tộc Lê Lợi, các tướng sĩ và Nhân dân ta trong công cuộc đánh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập và xây dựng đất nước phát triển hưng thịnh.
Ngoài ra, phần hội còn có sự kết hợp của các trò diễn đặc sắc như trò Xuân Phả, múa đèn Đông Anh, diễn tấu cồng chiêng của người Mường, múa bát dân tộc Dao… tạo nên một không gian nghệ thuật đậm đà bản sắc dân tộc, để lại nhiều dư âm cùng ấn tượng đẹp trong lòng Nhân dân và du khách thập phương.
Ngoài mục đích tri ân, tưởng nhớ Anh hùng giải phóng dân tộc Lê Lợi cùng các tướng sỹ nghĩa quân Lam Sơn, Lễ hội Lam Kinh còn giới thiệu, quảng bá với du khách thập phương và bạn bè quốc tế về nét đẹp, truyền thống văn hóa của đất và người xứ Thanh, giá trị của khu Di tích Quốc gia đặc biệt Lam Kinh; cùng với những tiềm năng, thế mạnh về phát triển kinh tế, du lịch và sự đổi mới, phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội của Thanh Hóa trong những năm qua.
Minh Hiền