Theo chuyên gia, gói hỗ trợ lần hai cần tính tới đối tượng cụ thể và ưu tiên thúc đẩy kinh tế chứ không chỉ là giải cứu như trước.
Đởn giản hóa thủ tục vay vốn
Theo Quyết định 32/2020/QĐ-TTg vừa được Thủ tướng Chính phủ ban hành, doanh nghiệp được vay vốn để trả lương ngừng việc cho người lao động chỉ cần bảo đảm điều kiện là có người lao động đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc phải ngừng việc từ 1 tháng trở lên từ ngày 1/4/2020, đến hết ngày 31/12/2020; doanh nghiệp có doanh thu quý I/2020 giảm 20% trở lên so với quý IV/2019, hoặc doanh thu của quý liền kề trước thời điểm xét hỗ trợ.
Như vậy, so với quy định tại Quyết định 15/2020/QĐ-TTg, điều kiện để doanh nghiệp gặp khó khăn do Covid-19 được vay vốn với lãi suất 0% tại Ngân hàng Chính sách xã hội để trả lương cho người lao động đơn giản hơn rất nhiều. Chính những quy định ngặt nghèo của Quyết định 15/2020/QĐ-TTg khiến gói hỗ trợ người dân và doanh nghiệp trị giá 62.000 tỷ đồng có hiệu quả rất thấp, đặc biệt chưa có doanh nghiệp nào được vay vốn với lãi suất 0% để trả lương cho người lao động.
Theo ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Ban Nghiên cứu tổng hợp, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, có thể còn nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, nhưng các gói hỗ trợ đã góp phần rất lớn cho doanh nghiệp vượt qua khó khăn.
“Gói hỗ trợ lần một rất phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, nguồn tài chính hạn hẹp của ngân sách nhà nước. Đây là cơ sở rất quan trọng để Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành thiết kế các biện pháp hỗ trợ trong giai đoạn sau”, ông Dương nói.
Theo ông Dương, nếu nhìn sang quốc gia khác đang thực hiện chính sách hỗ trợ tài khóa một cách ồ ạt cho doanh nghiệp hoặc người dân hoặc cả hai, nhiều người băn khoăn về mức độ hỗ trợ, tính bằng tiền và so với quy mô GDP của Việt Nam là quá ít.
Đánh giá cao các giải pháp, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người dân vượt qua khó khăn do đại dịch Covid-19, nhưng Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, ông Vũ Hồng Thanh cho rằng, vẫn có những khó khăn, vướng mắc trong chi trả, hỗ trợ cho các đối tượng chịu ảnh hưởng bởi Covid-19. Cụ thể, chỉ có khoảng 179.250 doanh nghiệp được gia hạn tiền thuế và tiền thuê đất trị giá 53.645 tỷ đồng, thay vì trên 600.000 doanh nghiệp với số tiền gia hạn dự tính ban đầu là 182.000 tỷ đồng; gói hỗ trợ an sinh xã hội cũng mới chỉ giải ngân được khoảng 12.900 tỷ đồng và chưa có bất kỳ doanh nghiệp nào được vay vốn để trả lương cho người lao động.
Theo chuyên gia kinh tế Cấn Văn Lực, để đối phó với Covid-19, tất cả các nước trên thế giới đều tung ra các gói hỗ trợ tài chính, tiền tệ để cứu vớt doanh nghiệp và người dân với quy mô rất lớn. “Gói hỗ trợ của các nước phát triển tương đương 15-20% GDP; các nền kinh tế mới nổi ít hơn, nhưng cũng tương đương 12% GDP. Còn khu vực ASEAN, gói hỗ trợ cả tài khóa lẫn tiền tệ mà chính phủ các nước tung ra để giúp đỡ người dân, doanh nghiệp vào khoảng 5-7% GDP. Tại Việt Nam, nếu cộng dồn lại thì cũng lớn, nhưng thực ra chỉ vào khoảng 3% GDP”, ông Lực tính toán.
Theo ông Lực, gói hỗ trợ chưa hiệu quả vì rất nhiều doanh nghiệp thua lỗ, không có doanh thu, cũng không được thuê đất của Nhà nước nên không phải nộp thuế và tiền thuê đất, vì thế gia hạn thời gian nộp thuế và tiền thuê đất không có ý nghĩa. Nhiều doanh nghiệp có lãi, có doanh thu, nhưng đã nộp thuế trong quý I, nên việc gia hạn cũng không còn nhiều ý nghĩa.
“Để được nhận hỗ trợ, doanh nghiệp và người dân phải thực hiện rất nhiều thủ tục, chưa kể một số điều kiện để được nhận hỗ trợ không sát với thực tế, nên gói hỗ trợ lần thứ nhất đạt hiệu quả rất thấp”, ông Lực bình luận.
Tránh hỗ trợ tràn lan, tập trung cho DN có khả năng phục hồi
Theo chuyên gia, gói hỗ trợ lần hai cần tính tới đối tượng cụ thể và ưu tiên thúc đẩy kinh tế chứ không chỉ là giải cứu như trước. Theo đó, không nên hỗ trợ tràn lan, cào bằng, mà chỉ tập trung cho doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phục hồi, phát triển sau khi dịch bệnh qua đi. Nếu hỗ trợ cho cả những doanh nghiệp đứng trước bờ vực phá sản, đóng cửa, ngừng hoạt động, thì họ cũng không vượt qua được khó khăn, gây lãng phí nguồn lực. Ngoài ra, doanh nghiệp được nhận hỗ trợ phải cam kết không sa thải lao động, nếu có cũng khống chế tỷ lệ sa thải lao động, nếu không thì gói hỗ trợ không đến được với người lao động.
Chuyên gia kinh tế Cấn Văn Lực cho rằng, từ kinh nghiệm của gói hỗ trợ lần 1, gói hỗ trợ lần 2 phải thiết kế để tập trung 3 mũi giáp công.
Thứ nhất, phải tức thời, thực hiện càng sớm càng tốt vì giải cứu doanh nghiệp là mục tiêu đầu tiên.
Thứ hai, phải giúp được doanh nghiệp phục hồi, ít nhất là cầm cự trong bối cảnh dịch bệnh vẫn rình rập do Covid-19 đang hoành hành ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Thứ ba, liều lượng hỗ trợ, thời gian hỗ trợ phải làm sao giúp doanh nghiệp tăng được khả năng chống chịu lâu dài, chứ không phải hỗ trợ là xong, vì Covid-19 chưa biết bao giờ mới chấm dứt.
Ông Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện nghiên cứu Chiến lược thương hiệu và cạnh tranh nhấn mạnh nguyên tắc đầu tiên là chính sách phải nhanh. Là người đóng góp từ đầu cho việc hoạch định chính sách và theo dõi quá trình thực hiện, ông nhận định, với Việt Nam, "thực thi chính sách tốt còn quan trọng hơn làm ra chính sách tốt".
Chính sách đúng và kịp thời nhưng việc thực thi không nhanh và quyết liệt. Có ban chỉ đạo chống dịch nhưng lại không có ban chỉ đạo về kinh tế. Quốc hội đồng hành nhưng không trao quyền cho Chính phủ, đơn cử như muốn giảm thuế để hỗ trợ sản xuất kinh doanh cũng phải chờ Quốc hội giơ tay, ông Thành nói. Ông chia sẻ: "Cá nhân tôi cũng rất tiếc, gói hỗ trợ lần hai lẽ ra cần đưa ra trong tháng 9 nhưng đến nay vẫn chưa xong".
Với gói hỗ trợ lần hai, ông Thành cũng như nhiều chuyên gia khác đều đồng tình "phải đủ quy mô, đủ thời gian và độ bao phủ". Chính phủ có thể phải chấp nhận thâm hụt ngân sách để đưa ra gói hỗ trợ quy mô đủ lớn, thời gian hỗ trợ kéo dài ít nhất tới 2021 và bao phủ trên diện rộng, đặc biệt tính tới các đối tượng SME và gần 29 triệu người lao động phi chính thức – vốn gần như nằm ngoài vòng hỗ trợ trước đây.
TH