Giá lúa gạo tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long hôm nay điều chỉnh giảm. Thị trường dịch mua bán vắng, giá lúa các loại bình ổn.
![]() |
Giá lúa gạo hôm nay 26/8/2025: Giá gạo nguyên liệu giảm nhẹ, phụ phẩm biến động trái chiều |
Giá gạo trong nước
Giá gạo nguyên liệu tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long hôm nay điều chỉnh giảm so với phiên hôm qua. Cụ thể, giá gạo nguyên liệu OM 5451 giảm 300 đồng/kg, xuống còn 8.000 – 8.100 đồng/kg; gạo nguyên liệu CL 555 giảm 250 đồng/kg, còn 8.000 – 8.100 đồng/kg. Trong đó, gạo nguyên liệu OM 380 duy trì ổn định ở mức 8.200 – 8.300 đồng/kg; OM 5451 ổn định ở mức 9.500 – 9.650 đồng/kg; OM 18 giữ ở mức 9.600 - 9.700 đồng/kg;…
![]() |
Bảng giá gạo hôm nay 26/8/2025 |
Tại các chợ dân sinh, mặt hàng gạo bán lẻ không biến động. Cụ thể, gạo thường hiện ở mức 13.000 - 14.000 đồng/kg; gạo Hương Lài niêm yết 22.000 đồng/kg; gạo thơm Thái 20.000 - 22.000 đồng/kg; gạo Nàng Nhen vẫn giữ mức cao nhất với giá 28.000 đồng/kg.
Phân khúc nếp duy trì ổn định. Cụ thể, giá nếp IR 4625 tươi hiện ở mức 7.300 – 7.500 đồng/kg; nếp 3 tháng khô ở mức 9.600 – 9.700 đồng/kg; nếp IR 4625 (khô) duy trì ở mức 9.500 – 9.700 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá nếp hôm nay 26/8/2025 |
Mặt hàng phụ phẩm
Mặt hàng phụ phẩm tăng giảm trái chiều. Cụ thể, giá tấm thơm hiện ở mức 7.300 – 7.400 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg. Ở chiều ngược lại, giá cám khô tăng 200 đồng/kg, lên mức 6.400 – 6.500 đồng/kg. Trong khi đó, giá trấu hiện ở mức 1.400 – 1.500 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá phụ phẩm hôm nay 26/8/2025 |
Giá lúa trong nước
Theo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang, giá lúa hôm nay không biến động. Cụ thể, lúa OM 5451 (tươi) dao động mức 5.900 - 6.000 đồng/kg; OM 18 (tươi) ở mức 6.000 - 6.200 đồng/kg; giá lúa Nàng Hoa 9 ở mức 6.100 - 6.200 đồng/kg; lúa Đài Thơm 8 (tươi) hiện ở mức 6.100 - 6.200 đồng/kg; IR 50404 (tươi) dao động ở mức 5.700 - 5.800 đồng/kg; OM 380 duy trì ở mức 5.700 - 5.900 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá lúa hôm nay 26/8/2025 |
Tại thị trường xuất khẩu
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo của Việt Nam bình ổn so vơi shoom qua. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), hiện gạo 25% tấm ở mức 368 USD/tấn; gạo 100% tấm ở mức 335 USD/tấn; gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam vẫn đang được báo giá ở mức 399 USD/tấn, cao nhất trong số các nước xuất khẩu gạo hàng đầu.
Trong khi đó, gạo 5% tấm của Ấn Độ đang được báo giá ở mức thấp hơn là 376 USD/tấn. Tại Pakistan và Thái Lan, giá giao dịch lần lượt đứng ở mức 355 USD/tấn và 354 USD/tấn.
Quyết định của Ấn Độ về việc giải phóng 20 triệu tấn gạo từ kho dự trữ trong tháng 9 đang tạo ra sức ép chưa từng có với thị trường gạo toàn cầu, đặc biệt là Thái Lan - quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ ba thế giới.
Ông Chukiart Opaswong - Chủ tịch danh dự Hiệp hội Xuất khẩu Gạo Thái Lan - cho biết, kế hoạch này nhằm giải phóng kho chứa để chuẩn bị cho vụ thu hoạch mới. Tuy nhiên, Ấn Độ chào bán gạo dự trữ ở mức chỉ 230 USD/tấn, và sau khi nâng cấp chất lượng, gạo xuất khẩu của nước này cũng chỉ khoảng 280 - 300 USD/tấn – thấp hơn nhiều so với mức 365 - 370 USD/tấn của gạo Thái Lan hiện nay.
Sự chênh lệch giá này khiến gạo Thái Lan mất lợi thế cạnh tranh rõ rệt, hệ quả trực tiếp là nông dân Thái Lan chịu thiệt hại lớn khi giá lúa thô chỉ còn 5.000 - 6.000 Baht/tấn, chưa bằng một nửa so với 11.000 - 12.000 Baht/tấn năm ngoái. Tình trạng càng nghiêm trọng hơn khi lũ lụt tại tỉnh Ayutthaya buộc nhiều hộ phải thu hoạch sớm, làm giảm chất lượng hạt gạo và kéo giá xuống thấp hơn nữa.
Theo ông Chukiart, việc Ấn Độ tung lượng lớn gạo giá rẻ ra thị trường chẳng khác nào “đòn giáng mạnh” vào ngành xuất khẩu gạo Thái Lan. Cùng quan điểm, ông Pramote Charoensilp - Chủ tịch Hiệp hội Nông dân Thái Lan - cho rằng, áp lực từ Ấn Độ có thể khiến giá gạo nội địa tiếp tục giảm sâu trong những tháng tới, đúng vào thời điểm vụ thu hoạch chính (tháng 10 - 12) sắp bắt đầu.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Ấn Độ đã xuất khẩu hơn 11 triệu tấn gạo, bỏ xa Việt Nam (5,2 triệu tấn) và Thái Lan (3,7 triệu tấn). Với mục tiêu 23 triệu tấn trong cả năm, động thái xả kho lần này càng củng cố vị thế dẫn đầu của Ấn Độ, đồng thời tạo áp lực cạnh tranh ngày càng lớn đối với các nước xuất khẩu còn lại.