Giá lúa gạo tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long hôm nay không biến động. Thị trường giao dịch mua bán chậm, nguồn lúa Hè Thu còn lại ít.
![]() |
Giá lúa gạo hôm nay 20/9/2025: Giá gạo xuất khẩu giảm nhẹ |
Giá gạo trong nước
Ghi nhận tại các địa phương hôm nay, giao dịch mua bán đều, chủng loại IR50404/OM380, CL 555, nguồn về ít, giá bình ổn. Tại An Giang, các kho hỏi mua nhiều hơn với những ngày trước, dịch mua bán khá, giá ít biến động. Tại khu vực Sa Đéc (Đồng Tháp), gạo nguyên liệu IR50404/OM380, CL 555 vững giá. Tại Lấp Vò (Đồng Tháp), giá các loại gạo trung bình ít biến động, gạo đẹp nhích nhẹ.
Kênh chợ Sa Đéc (Đồng Tháp), về lượng ít, giá tương đối ổn định. Tại An Cư - Đồng Tháp, gạo về lai rai, giao dịch khởi sắc, kho mua lựa gạo đẹp, giá bình ổn.
Giá gạo nguyên liệu tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long hôm nay không ghi nhận biến động mới, ổn định so với phiên hôm qua. Cụ thể, giá gạo nguyên liệu IR 504 hiện ở mức 8.100 – 8.200 đồng/kg; gạo CL 555 giao dịch ở mức 8.150 – 8.250 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 380 hiện duy trì ở mức 7.450 – 7.550 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 18 ở mức 8.400 – 8.600 đồng/kg; IR 50404 ở mức 8.500 – 8.600 đồng/kg; OM 5451 giữ ở mức 7.700 – 7.900 đồng/kg;…
![]() |
Bảng giá gạo hôm nay 20/9/2025 |
Tại các chợ dân sinh, mặt hàng gạo bán lẻ không biến động. Cụ thể, gạo thường hiện ở mức 13.000 - 14.000 đồng/kg; gạo Hương Lài niêm yết 22.000 đồng/kg; gạo thơm Thái 20.000 - 22.000 đồng/kg; gạo Nàng Nhen vẫn giữ mức cao nhất với giá 28.000 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá nếp hôm nay 20/9/2025 |
Phân khúc nếp đi ngang. Cụ thể, nếp 3 tháng khô hiện ở mức 9.600 - 9.700 đồng/kg; nếp IR 4625 (khô) duy trì ở mức 9.500 - 9.700 đồng/kg; giá nếp IR 4625 tươi hiện ở mức 7.300 - 7.500 đồng/kg.
Mặt hàng phụ phẩm
Mặt hàng phụ phẩm tăng nhẹ so với phiên hôm qua. Cụ thể, giá tấm IR 504 tăng 50 đồng/kg, lên mức 7.350 – 7.450 đồng/kg; giá cám tăng 100 đồng/kg, dao động từ 6.550 – 6.650 đồng/kg. Trong khi đó giá trấu duy trì ở mức 1.400 - 1.500 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá phụ phẩm hôm nay 20/9/2025 |
Giá lúa trong nước
Ghi nhận tại nhiều địa phương hôm nay, nguồn lúa Hè Thu còn lại ít, giao dịch mua bán chậm, giá ít biến động. Tại Cần Thơ, nguồn lúa Hè Thu cạn dần, nông dân chào bán giá cao, bạn hàng hỏi mua lúa Thu Đông nhiều hơn, giá vững. Tại Đồng Tháp, nguồn lúa thu hoạch lai rai, thương lái mua mới chậm, giá lúa tương đối bình ổn.
Tại An Giang, lúa Thu Đông giao dịch mua bán ít, giá ít biến động. Tại Vĩnh Long, bạn hàng hỏi mua lai rai, giá lúa tươi các loại vững. Tại Cà Mau, giao dịch mua bán cầm chừng, giá chững. Tại Tây Ninh (Long An cũ), giao dịch mua bán mới lai rai, giá lúa bình ổn.
Theo thông tin từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang, giá lúa hôm nay không đổi so với phiên hôm qua. Cụ thể, lúa Đài Thơm 8 (tươi) trong khoảng 6.100 – 6.200 đồng/kg; IR 50404 (tươi) hiện ở mức 5.700 – 5.800 đồng/kg; Nàng Hoa 9 duy trì quanh mức 6.100 – 6.200 đồng/kg; lúa OM 380 giữ ở mức 5.700 – 5.900 đồng/kg; OM 5451 (tươi) thu mua trong khoảng 5.900 – 6.000 đồng/kg; OM 18 (tươi) ở mức 6.000 – 6.200 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá lúa hôm nay 20/9/2025 |
Tại thị trường xuất khẩu
Theo Reuters, giá gạo xuất khẩu tại nhiều nước châu Á tuần này tiếp tục suy yếu khi nhu cầu giảm, nguồn cung dồi dào.
Tại Ấn Độ, gạo đồ 5% tấm được chào bán ở mức 354 - 362 USD/tấn, thấp nhất kể từ tháng 6/2022. Ngược lại, gạo trắng 5% tấm tăng nhẹ lên 369 - 375 USD/tấn. Dù vậy, xuất khẩu vẫn ảm đạm do giá gạo Ấn Độ cao hơn nguồn cung từ Pakistan và Thái Lan. Lượng gạo dự trữ của Chính phủ Ấn Độ đã tăng hơn 14% so với cùng kỳ, đạt kỷ lục vào đầu tháng 9.
Tại Việt Nam, giá gạo 5% tấm giảm xuống 440 - 450 USD/tấn - mức thấp nhất trong một tháng, sau khi Philippines tạm dừng nhập khẩu 60 ngày. Nửa đầu tháng 9, xuất khẩu gạo chỉ đạt 234.032 tấn, trị giá 112,5 triệu USD. Tính đến ngày 15/9, tổng lượng xuất khẩu đạt 6,6 triệu tấn, tăng 1,5% so với cùng kỳ, nhưng giá trị giảm 17% còn 3,37 tỷ USD.
Ở Thái Lan, gạo 5% tấm dao động quanh mức 360 USD/tấn, thấp hơn tuần trước, trong bối cảnh nhu cầu yếu dù nguồn cung vụ mới được dự báo dồi dào nhờ mưa thuận lợi.
Trong khi đó, Bangladesh đối mặt áp lực giá nội địa cao, bất chấp lượng dự trữ vượt 2,2 triệu tấn sau vụ mùa bội thu. Giá gạo tại đây vẫn cao hơn 15–20% so với một năm trước, khiến gánh nặng chi phí đối với người tiêu dùng ngày càng lớn.