Giá lúa gạo tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nguồn khá, giao dịch mua bán khởi sắc.
![]() |
Giá lúa gạo hôm nay 11/4/2025: Giá lúa gạo giảm với gạo nguyên liệu, tăng nhẹ với nếp và cám |
Giá gạo trong nước
Tại nhiều địa phương ghi nhận lượng về khá hơn, kho hỏi mua đều gạo thơm. Tại An Giang, lượng khá, giao dịch mua bán đều, giá gạo ít biết động. Trong khi, kênh chợ Sa Đéc (Đồng Tháp), lượng về lai rai, kho chợ mua đều gạo các loại, giá ổn định.
Ở An Cư (Cái Bè, Tiền Giang), lượng về ít, kho mua chậm, giá gạo ổn định. Còn tại Lấp Vò (Đồng Tháp), lượng về ít, các kho giao dịch mua bán đều, giá vững.
Với mặt hàng gạo, tại các khu vực khác của Đồng bằng sông Cửu Long giá gạo biến động nhẹ so với ngày hôm trước. Cụ thể, gạo nguyên liệu OM 5451 đảo chiều giảm 50 đồng/kg, xuống còn 9.600 – 9.750 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 380 không đổi ở mức 7.800 – 7.900 đồng/kg; giá gạo nguyên liệu IR 504 hiện ở mức 7.800 - 8.000 đồng/k; gạo nguyên liệu OM 18 dao động ở mức 9.300 - 9.500 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 dao động ở 7.600 - 7.800 đồng/kg; gạo Nàng Hoa 9 vẫn giữ ổn định ở mức 6.550 - 6.750 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá gạo hôm nay 11/4/2025. |
Tại các chợ lẻ, giá gạo tại các chợ An Giang giá gạo thường bán lẻ vẫn được niêm yết từ 15.000 - 16.000 đồng/kg; các loại gạo thơm trong khoảng 18.000 – 22.000 đồng/kg; gạo Nàng Nhen có giá niêm yết cao nhất 28.000 đồng/kg; gạo thường dao động ở mốc 15.000 - 16.000 đồng/kg; gạo thơm thái hạt dài dao động ở mức 20.000 - 22.000 đồng/kg; gạo Hương Lài 22.000 đồng/kg; gạo thơm Jasmine dao động ở mức 18.000 - 20.000 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg.
Thị trường nếp hôm nay tăng nhẹ. Hiện, giá nếp IR 4625 (tươi) lên mức 7.700 – 7.900 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg; giá nếp IR 4625 ở mức 7.900 - 8.000 đồng/kg; nếp 3 tháng khô ở mức 9.600 - 9.700 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá nếp hôm nay 11/4/2025. |
Mặt hàng phụ phẩm
Với phụ phẩm, giá các mặt hàng phụ phẩm ổn định, dao động trong khoảng từ 5.750 - 7.300 đồng/kg. Hiện, giá cám tăng 150 đồng/kg, lên 5.750 - 5.950 đồng/kg; giá tấm 3 - 4 ở mức 6.700 - 6.800 đồng/kg; giá tấm thơm dao động ở mức 7.100 - 7.300 đồng/kg; trấu dao động từ 800 - 900 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá phụ phẩm hôm nay 11/4/2025. |
Giá lúa trong nước
Tại nhiều địa phương, nguồn khá, giao dịch mua bán khởi sắc. Tại Bạc Liêu, lúa đã được cọc nhiều, giá lúa thơm vững, giá lúa ST tăng tiếp. Trong khi đó, nông dân ở An Giang tiếp tục chào giá tăng, nguồn lúa nhiều nơi lượng còn ít, giao dịch mua bán chậm.
Tại Cần Thơ, nguồn khá, nhu cầu hỏi mua ít, giao dịch mua bán chậm do giá lúa chào cao. Còn tại Long An, nông dân chào giá lúa tăng nhẹ, giao dịch mua bán chậm.
Theo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang, giá lúa hôm nay tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long duy trì ổn định. Cụ thể, giá lúa OM 5451 hiện ở mức 6.200 - 6.400 đồng/kg; lúa Đài Thơm 8 được giao dịch ở mức 6.800 -7.000 đồng/kg; lúa OM 18 (tươi) từ 6.700 - 6.900 đồng/kg; Nàng Hoa 9 từ 6.550 - 6.750 đồng/kg; IR 50404 và OM 380 (tươi) trong khoảng 5.800 - 6.000 đồng/kg…
![]() |
Bảng giá phụ phẩm hôm nay 11/4/2025. |
Tại thị trường xuất khẩu
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), giá gạo xuất khẩu 25% tấm của Việt Nam đang đứng ở mức 370 USD/tấn; gạo xuất khẩu 5% tấm của Việt Nam đang ở mức 399 USD/tấn, trong khi đó, sản phẩm cùng loại của Thái Lan, Pakistan và Ấn Độ đứng ở mức thấp hơn là 394 USD/tấn, 391 USD/tấn và 376 USD/tấn.
Theo Philstar, Cơ quan Thống kê Philippines (PSA) cho biết, mặc dù tăng so với cùng kỳ năm trước, lượng gạo tồn kho hàng tháng của Philippines đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng một năm do nguồn cung ở cả khu vực thương mại và các hộ gia đình đều suy giảm.
Cụ thể, tính đến ngày 1/3, tổng lượng gạo tồn kho tại Philippines đạt 1,61 triệu tấn, cao hơn khoảng 18% so với mức 1,37 triệu tấn được ghi nhận trong cùng kỳ năm 2024. Tuy nhiên, con số này đã giảm gần 1/5 so với mức 2,01 triệu tấn vào tháng 2.
Dữ liệu từ PSA cho thấy lượng gạo tồn kho vào tháng 3 năm nay là mức thấp nhất trong vòng một năm, kể từ khi đạt 1,37 triệu tấn vào cùng tháng năm ngoái.
Lượng gạo tồn kho trong các hộ gia đình đã tăng gần 13% so với cùng kỳ năm trước, lên 784.500 tấn. Trong khi đó, lượng dự trữ gạo của Cơ quan Lương thực Quốc gia (NFA) đã tăng vọt lên gần 300.000 tấn từ 41.290 tấn vào năm ngoái.
Ngược lại, lượng gạo dự trữ của khu vực thương mại tính đến ngày 1/3 đã giảm 16,3%, xuống còn 527.780 tấn.