| Bài liên quan |
| Tổng Bí thư Tô Lâm: "Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai, là quyết định tương lai của đất nước" |
Sáng 25/11 tại Tổ thảo luận số 6 gồm đoàn đại biểu Quốc hội các tỉnh Lạng Sơn, Đồng Nai và Thừa Thiên Huế, các đại biểu đã cho ý kiến về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục giai đoạn 2026 – 2035. Nhiều ý kiến nhấn mạnh yêu cầu xác định rõ thứ tự ưu tiên, lộ trình cụ thể và tiêu chí minh bạch trong phân bổ nguồn lực; đồng thời tập trung giải quyết các vấn đề thực tiễn như thiếu giáo viên, chênh lệch cơ sở vật chất và nhu cầu đào tạo khoa học xã hội.
Góp ý cho dự thảo Nghị quyết, đại biểu Nguyễn Thị Sửu (Thừa Thiên Huế) đánh giá văn bản thể hiện tầm nhìn chiến lược và quyết tâm của Quốc hội trong việc hiện đại hóa giáo dục. Tuy nhiên, để bảo đảm tính khả thi, đại biểu đề nghị bổ sung cơ chế giám sát cụ thể, làm rõ mục tiêu và lộ trình từng giai đoạn.
Đối với các mục tiêu lớn như “100% giáo viên đạt chuẩn” hay “một trường đại học của Việt Nam vào nhóm 100 trường hàng đầu thế giới”, đại biểu cho rằng cần phân tích đầy đủ về nguồn lực và điều kiện thực hiện. Đại biểu đề xuất xây dựng các mốc theo từng giai đoạn như 50%, 70%, 100%, đồng thời tham chiếu bộ chỉ số quốc tế như PISA, TALIS, PIAAC để có cơ sở theo dõi và đánh giá khách quan.
![]() |
| Đại biểu Nguyễn Thị Sửu (Thừa Thiên Huế). |
Về phạm vi thụ hưởng, đại biểu lưu ý dự thảo chưa làm rõ nhóm trường dân tộc nội trú, dự bị đại học hay các trường Hữu nghị – những cơ sở có tính đặc thù phục vụ vùng khó khăn. Việc chưa xác định rõ đối tượng có thể dẫn đến cách hiểu không thống nhất. Do đó, đại biểu đề nghị quy định riêng đối với các cơ sở này để bảo đảm công bằng và linh hoạt trong triển khai.
Liên quan đến các dự án có tổng vốn lớn, trong đó có dự án lên tới 277 nghìn tỷ đồng, đại biểu cho rằng cần đánh giá sâu nhu cầu thực tế, hiệu quả đầu tư và tính khả thi. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần thực hiện báo cáo phân tích chi tiết từng dự án, đồng thời tổ chức thẩm định độc lập để tránh đầu tư dàn trải hoặc hình thức.
Về nguyên tắc phân bổ vốn, đại biểu Nguyễn Thị Sửu nhấn mạnh tiêu chí “ưu tiên địa phương nhận bổ sung cân đối từ ngân sách trung ương” cần được cụ thể hóa. Đại biểu đề xuất xây dựng bộ tiêu chí dựa trên thu nhập bình quân, tỷ lệ hộ nghèo, số lượng trường đạt chuẩn… nhằm bảo đảm phân bổ công bằng, minh bạch và có cơ sở.
Bên cạnh đó, đại biểu đề nghị bổ sung biện pháp xử lý khi địa phương không bố trí đủ nguồn lực đối ứng; đồng thời xem xét thành lập Ban giám sát liên ngành để tăng cường kiểm tra, xác định rõ trách nhiệm từng cấp, tránh tình trạng chồng chéo.
Đồng tình với các phân tích trên, đại biểu Trịnh Xuân An (Đồng Nai) tập trung góp ý về tổng mức đầu tư, phương pháp xây dựng ngân sách và cơ chế chuyển tiếp giữa các chương trình.
Đối với khoản vốn đối ứng dự kiến khoảng 89 nghìn tỷ đồng từ các trường học, đại học và cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đại biểu cho rằng khả năng thực hiện là rất thấp. Hiện nay, vốn đối ứng chủ yếu do địa phương bảo đảm, không tính từ doanh nghiệp hoặc các cơ sở thụ hưởng. Vì vậy, đại biểu đề nghị loại bỏ khoản vốn này để giảm tổng mức đầu tư và tránh tình trạng Nhà nước không kiểm soát được nguồn vốn hỗn hợp từ khu vực tư nhân và công.
![]() |
| Đại biểu Trịnh Xuân An (Đồng Nai). |
Để tăng hiệu quả triển khai, đại biểu Trịnh Xuân An kiến nghị cho phép chuyển một số nội dung giáo dục từ các chương trình mục tiêu hiện hành sang chương trình mới; đồng thời xây dựng cơ chế chuyển tiếp phù hợp để không gây vướng mắc về thủ tục, tài chính hay nhân sự.
Đại biểu cũng đề xuất cơ chế linh hoạt trong điều chỉnh vốn và hạng mục giữa các dự án thành phần; phân cấp mạnh hơn theo gói, trao quyền chủ động cho cấp tỉnh, cấp xã nhằm tập trung vào hiệu quả đầu ra, thay vì triển khai cứng theo thiết kế ban đầu.
Ý kiến từ các đại biểu tại Tổ 6 cho thấy sự thống nhất về yêu cầu hoàn thiện dự thảo nghị quyết theo hướng cụ thể, rõ ràng và có tính ràng buộc hơn. Việc xác định đúng trọng tâm đầu tư, thiết kế tiêu chí minh bạch và đảm bảo trách nhiệm giải trình được kỳ vọng sẽ tạo chuyển biến mạnh mẽ trong hiện đại hóa giáo dục giai đoạn tới.