Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Luật PPP) được ban hành nhằm tạo khuôn khổ pháp lý chung, có hiệu lực cao, lâu dài, ổn định hơn cho việc thực hiện các dự án PPP tại Việt Nam. Theo Bộ Tài chính, Luật PPP cơ bản đã quy định chi tiết các nội dung cần quản lý trong hoạt động đầu tư theo phương thức PPP. Tuy nhiên, riêng đối với các nội dung quản lý cần sự linh hoạt trong triển khai áp dụng, đảm bảo phù hợp với thực tiễn thì Luật chỉ quy định các nguyên tắc quản lý và Chính phủ sẽ quy định chi tiết.
Chính sách thu hút đầu tư theo hình thức PPP sẽ được xây dựng phù hợp.
Trên cơ sở các nội dung Quốc hội đã giao Chính phủ hướng dẫn Luật PPP, tại Quyết định số 1109/QĐ-TTg ngày 24/7/2020, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì nghiên cứu và xây dựng dự thảo Nghị định quy định cơ chế quản lý tài chính dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư. Theo Bộ Tài chính, mục đích của Nghị định này nhằm hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư theo hình thức PPP, tiệm cận dần với thông lệ quốc tế và điều kiện của Việt Nam nhằm tạo môi trường thuận lợi, hấp dẫn để thu hút nhà đầu tư thực sự có năng lực tài chính, kinh nghiệm quản lý thực hiện dự án...
Một trong những quy định quan trọng nhất của dự thảo này là về phương án tài chính của dự án PPP. Bộ Tài chính cho rằng, nguyên tắc xây dựng phương án tài chính của dự án PPP trên cơ sở dòng tiền sau thuế được chiết khấu theo tỷ suất chiết khấu bình quân gia quyền của lãi suất các nguồn vốn dự án huy động và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu. Doanh thu tính trong phương án tài chính của dự án và doanh thu thực tế khi áp dụng cơ chế chia sẻ doanh thu tăng, giảm dự án là doanh thu từ việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ công, không bao gồm thuế giá trị gia tăng.
Bên cạnh đó, phương án tài chính trong báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi dự án PPP gồm 8 nội dung: tổng mức đầu tư dự án; các nguồn vốn thực hiện dự án; đề xuất ưu đãi, bảo đảm nếu có; lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu; dự kiến các khoản chi phí trong giai đoạn vận hành; phương án thu hồi vốn đầu tư, lợi nhuận của nhà đầu tư; các khoản nộp ngân sách nhà nước nếu có đối với các dự án thực hiện theo hình thức hợp đồng O&M (hợp đồng Kinh doanh - Quản lý); các chỉ tiêu phân tích, đánh giá tính khả thi tài chính của dự án.
"Quy định trên sẽ là cơ sở để xây dựng, phê duyệt phương án tài chính trong lập, phê duyệt hồ sơ mời thầu, đàm phán, ký kết hợp đồng dự án PPP", Bộ Tài chính khẳng định.
P.V