Thị trường tín chỉ carbon của Việt Nam dự kiến sẽ phát triển trong tương lai gần do còn trữ lượng rừng và nhiều tập đoàn nước ngoài sẵn sàng chi hàng tỉ đô la để mua tín chỉ carbon rừng từ Việt Nam. Việt Nam có thể bán 57 triệu tín chỉ carbon cho các tổ chức quốc tế hàng năm, với giá 5 đô la/tín chỉ, ước tính thu về 235 triệu đô la mỗi năm.
Tuy nhiên, việc tận dụng cơ hội này vẫn gặp khó khăn do thiếu tiêu chuẩn, quy định, và quy trình rõ ràng cho các doanh nghiệp tham gia thị trường này.
Việt Nam, với đặc thù tự nhiên của mình, là một quốc gia tiềm năng trong các dự án liên quan đến tín chỉ carbon. Với tổng diện tích rừng lên đến 14,7 triệu hécta và tỷ lệ che phủ rừng khoảng 42%, nước ta có khả năng tạo ra 50 - 70 triệu tấn tín chỉ carbon rừng dự thừa. Nếu khai thác và xuất khẩu thành công, nguồn thu từ thị trường này có thể lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Điều này cho thấy rõ tiềm năng lớn mà Việt Nam có thể khai thác, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững.
Tuy nhiên, tiến trình phát triển chậm có thể đánh mất cơ hội. Theo TS Nguyễn Linh Ngọc, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường, việc triển khai thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam vẫn diễn ra chậm rãi. Điều này đe dọa đánh mất cơ hội lớn mà thị trường này mang lại. Để đảm bảo rằng Việt Nam có thể phát triển thị trường carbon một cách bền vững, việc xây dựng và phát triển thị trường cần được hướng dẫn bằng việc xác định cụ thể hạn ngạch phát thải khí nhà kính và cung cấp các công cụ và hạ tầng kỹ thuật trong quá trình kiểm kê khí nhà kính cho từng lĩnh vực và từng doanh nghiệp.
Cần sớm hoàn thiện khung pháp lý giao dịch tín chỉ Carbon. Về vấn đề này, theo ThS. Hồ Thị Hằng, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Tài chính, có ba nhóm nhiệm vụ và giải pháp quan trọng:
Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý: Cần xây dựng quy định về quản lý Nhà nước đối với tín chỉ carbon, quy định về đấu giá, vay mượn, nộp trả và thu hồi hạn ngạch. Cần xây dựng cơ chế quản lý tài chính cho hoạt động của thị trường tín chỉ carbon, quy trình đo đạc và báo cáo thẩm định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.
Tổ chức và vận hành thị trường: Cần tập trung vào việc tạo lập hàng hóa, kiện toàn tổ chức bộ máy và hạ tầng kỹ thuật, cũng như quản lý và giám sát hoạt động trên thị trường carbon.
Nâng cao nhận thức và năng lực: Cần tăng cường tuyên truyền và nâng cao nhận thức, phát triển nguồn nhân lực, và hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thông tin và thị trường.
Bà Hằng cũng lưu ý rằng tham gia thị trường carbon cho phép các doanh nghiệp lựa chọn các phương án giảm phát thải khí nhà kính một cách thông minh, thông qua tính toán chi phí và lợi ích của từng phương án, giúp thúc đẩy sự phát triển bền vững của doanh nghiệp và cả quốc gia.
Thị trường tín chỉ carbon mang theo cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc thu hút vốn đầu tư, cạnh tranh xuất khẩu và thúc đẩy sự phát triển bền vững. Tuy nhiên, để tận dụng cơ hội này, cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện các khung pháp lý, quy trình và tiêu chuẩn rõ ràng, cùng với việc tăng cường nhận thức và năng lực của tất cả các bên tham gia. Việc này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn đóng góp vào mục tiêu toàn cầu về giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ môi trường.
Hiện Quảng Nam là tỉnh duy nhất xây dựng đề án bán tín chỉ carbon rừng. Ông Hồ Quang Bửu, Phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam, cho biết sau khi hoàn tất các thủ tục của dự án và được phê chuẩn, Quảng Nam sẽ mời các doanh nghiệp nước ngoài tham gia đấu thầu. Hiện có sáu công ty nước ngoài quan tâm đến tín chỉ carbon rừng của Quảng Nam.
Theo đề án, Quảng Nam sẽ xuất khẩu 5,2 triệu tín chỉ carbon rừng trong giai đoạn 2021-2025. Cụ thể, trong năm 2021 sẽ bán 1,2 triệu tín chỉ của các năm 2018, 2019 và 2020 (bình quân mỗi năm sẽ bán 400.000 tín chỉ).
Lâm Nghi