Theo số liệu thống kê của BP, Việt Nam là quốc gia đứng thứ 28 trên tổng số 52 nước trên thế giới có tài nguyên dầu khí.
Là ngành kinh doanh đặc thù liên quan đến an ninh năng lượng quốc gia, ngành dầu khí Việt Nam chịu sự quản lý trực tiếp của Tập đoàn Công nghiệp – Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam - PVN) và sự giám sát của Bộ Công Thương.
Tập đoàn PVN đã thành lập các công ty con, công ty liên kết hoạt động trong lĩnh vực dầu khí, tổ chức hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con, tham gia vào toàn bộ chuỗi giá trị ngành, từ khai thác đến phân phối sản phẩm.
![]() |
Chuỗi giá trị ngành dầu khí của Việt Nam gồm nhóm thượng nguồn, trung nguồn và hạ nguồn. |
Mặc dù có thể tự khai thác dầu thô ở các mỏ trong nước, nhưng hằng năm PVN vẫn phải nhập nhiều dầu thô từ các quốc gia. Điều này theo các chuyên gia, chủ yếu để tối ưu hóa kỹ thuật, kinh tế và hiệu quả hoạt động của các nhà máy lọc dầu (Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn và Nhà máy lọc hóa dầu Dung Quất).
Vì vậy, hoạt động và kết quả kinh doanh của các công ty dầu khí phụ thuộc nhiều vào sự biến động dầu thô trên thế giới, tuy nhiên mức độ bị chịu ảnh hưởng, độ trễ sẽ phụ thuộc vào vị trí của doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất, phân phối dầu khí.
Nhìn chung nhóm doanh nghiệp làm dịch vụ thượng nguồn sẽ được hưởng lợi nhất nếu giá dầu neo cao một thời gian dài. Trong khi đó, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trung/hạ nguồn bị ảnh hưởng nhanh chóng từ biến động của giá dầu.
Trong chuỗi cung ứng ngành dầu khí, nhóm thượng nguồn - được đánh giá là phản ứng chậm hơn với sự thay đổi của giá dầu, với hai đại diện Tổng Công ty cổ phần Khoan và Dịch vụ khoan Dầu khí (PV Drilling - Mã: PVD) và Tổng CTCP Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (Mã: PVS).
Trong đó, PVS là doanh nghiệp nổi bật nhất về cung cấp các dịch vụ kỹ thuật liên quan đến dầu khí tại Việt Nam như cơ khí, xây lắp (M&C), Kho nổi, xử lý, chứa và xuất dầu (FSO/FPSO), khảo sát địa chất, địa chất,… Trong đó mảng M&C chiếm phần lớn tổng doanh thu.
Theo báo cáo Chứng khoán Vietcombank (VCBS), PVS sẽ ghi nhận doanh thu quý II đạt 5.986 tỷ đồng, tăng 7% so với cùng kỳ; lợi nhuận sau thuế 239 tỷ đồng, tăng 14%. Động lực chính từ mảng M&C khi đóng góp khoảng 60% tổng doanh thu.
Còn PVDrilling hoạt động trong lĩnh vực cung cấp giàn khoan và dịch vụ kỹ thuật khoan phục vụ hoạt động tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí trong và ngoài nước. PVD hiện đang nắm giữ khoảng 70% thị phần khoan tại Việt Nam.
Ngoài ra, PVD còn tham gia cung ứng các dịch vụ ra nước ngoài như dịch vụ cung ứng nhân lực khoan, dịch vụ chế tạo sửa chữa thiết bị dầu khí, đào tạo xuất khẩu lao động.
Trong ngắn hạn, hoạt động khoan khai thác tại các thị trường PVD cho thuê giàn khoan vẫn còn rất sôi động, bởi nguồn cung cho thuê giàn vẫn khan hiếm, khiến giá thuê tăng cao, giúp PVD hưởng lợi.
![]() |
Giàn khoan tự nâng và giàn khoan TAD (giàn khoan tiếp trợ nửa nổi nửa chìm) của PVD. (Ảnh: PVD). |
VCBS cho biết PVD dự đạt doanh thu quý II khoảng 2.425 tỷ đồng, tăng 6%; lợi nhuận sau thuế 236 tỷ đồng, tăng 79% so với cùng kỳ năm ngoái.
Động lực đến từ đơn giá cho thuê bình quân các giàn tăng nhẹ; giàn PVD VI đã hoạt động trở lại từ 18/4/2025 sau bảo trì bảo dưỡng. Ngoài ra, PVD cũng ghi nhận doanh thu di dời giàn PVD III từ Malaysia sang Indonesia để thực hiện chương trình khoan cho Pertamina.
Đối với nhóm trung nguồn, có nhiều cái tên đang niêm yết trên sàn và đóng vai trò chủ chốt trong chuỗi như PV GAS, PVTrans, PV Coating,…
Trong đó, Tổng Công ty Khí Việt Nam (PV GAS – Mã: GAS) đang giữ vị thế chủ lực trong ngành công nghiệp khí của cả nước, hoạt động trong lĩnh vực thu gom, vận chuyển, lưu trữ, chế biến, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh khí và các sản phẩm khí.
Mỗi năm, công ty cung cấp nguồn nguyên, nhiên liệu phục vụ sản xuất gần 15% sản lượng điện, 70% nhu cầu đạm cả nước và nhiên liệu cho nhiều khu công nghiệp.
PV Gas được đánh giá là hưởng lợi nhanh nhất khi giá dầu tăng. Nguyên nhân là giá khí bán ra tăng do công thức tính giá bán ra được neo theo giá dầu FO và dầu Brent.
Theo dự báo, PV GAS sẽ đạt doanh thu quý II là 32.415 tỷ đồng, tăng 8% và lợi nhuận sau thuế đạt 3.996 tỷ đồng, tăng 17% so với quý II/2024.
Kết quả tích cực đến từ sản lượng khí tiếp nhận và tiêu thụ của PV GAS. Ngoài ra, sản lượng khí dầu mỏ hóa lỏng (LPG) kinh doanh của PV GAS đạt gần 1,4 triệu tấn, tăng 22% so với cùng kỳ năm trước. Trong số đó, sản lượng kinh doanh quốc tế tăng 44% trong bối cảnh thị trường có nhiều biến động bất lợi. Giá dầu nhiên liệu đã giảm 3% so với cùng kỳ năm trước, và nhu cầu huy động khí cho sản xuất điện giảm gần 22%.
Tổng CTCP Vận tải Dầu khí (PVTrans – Mã: PVT) là đơn vị vận chuyển dầu thô, xăng dầu, LPG, hóa chất và hàng rời phục vụ trong và ngoài nước với đội tàu khoảng 58 chiếc. PVTrans vẫn đang tiếp tục chiến lược mở rộng đội tàu trong bối cảnh giá cước quốc tế duy trì nền giá cao giữa căng thẳng địa chính trị.
Tại thị trường trong nước, công ty chủ yếu vận tải cho Công ty Lọc hóa dầu Bình Sơn (Mã: BSR) nên tác động lớn nhất là vấn đề hàng tồn kho, giá cước vận tải được tính toán theo giá dầu nên không bị rủi ro quá lớn. Đối với vận tải dầu quốc tế, công ty đã có nhiều biện pháp kiểm soát tối đa nhiên liệu.
![]() |
PVTrans là đơn vị vận tải biển duy nhất của Tập đoàn PVN, sở hữu đội tàu 58 chiếc gồm tàu hàng rời, tàu dầu, tàu hóa chất, tàu LPG và tàu FSO/FPSO. (Ảnh minh họa: PVTrans). |
PV Coating (Mã: PVB) được xếp vào nhóm trung nguồn chuỗi ngành khí, đảm nhiệm các hợp đồng bọc ống cho dự án dầu khí tại Việt Nam. Hoạt động kinh doanh của PV Coating khá đặc thù và triển vọng tăng trưởng phụ thuộc lớn vào việc triển khai/mở rộng các dự án khai thác dầu khí mới.
Nhóm hạ nguồn bao gồm những công ty chế biến biến dầu khí, lọc hóa dầu và bán lẻ xăng dầu.
Đối với nhóm lọc dầu, Việt Nam đang có hai công ty lọc dầu là Công ty TNH Lọc hóa dầu Nghi Sơn và CTCP Lọc hóa dầu Bình Sơn (Mã: BSR), sở hữu hai nhà máy lọc dầu Nghi Sơn và Dung Quất. Hai nhà máy này đang đáp ứng 70-80% nhu cầu tiêu thụ cả nước, cung cấp dầu đã lọc về các công ty phân phối, bán lẻ, còn lại vẫn phải nhập khẩu từ bên ngoài.
Trong đó, chỉ có CTCP Lọc hóa dầu Bình Sơn đang niêm yết trên sàn với mã BSR. Kết quả kinh doanh của BSR phụ thuộc vào chủ yếu vào crack spread (mức chênh lệch giữa giá dầu thô với giá sản phẩm dầu thành phẩm), tức chịu tác động trực tiếp bởi giá dầu và các chính sách liên quan.
Chẳng hạn giai đoạn quý II - III/2024 trong quá khứ được xem là giai đoạn xấu nhất, điểm trũng của thị trường lọc dầu, nhiều nhà máy lọc dầu trên thế giới đã phải đóng cửa, giảm công suất, bởi biên lãi gộp rơi về đáy khi giá dầu biến động mạnh.
Trong quý II/2025, BSR dự kiến doanh thu là 32.295 tỷ đồng, tăng 32% so với cùng kỳ, nhưng lợi nhuận sau thuế chỉ đạt 72 tỷ đồng, giảm mạnh tới 91%.
Theo VCBS, doanh thu của BSR vượt kế hoạch kinh doanh nhờ sản lượng tăng và crack spread hồi phục, nhưng bị ảnh hưởng bởi hàng tồn kho giá cao do biến động giảm của giá dầu Brent và dầu nhiên liệu FO 5 tháng đầu năm đã giảm lần lượt 16% và 3% so với cùng kỳ.
![]() |
Giá dầu Brent từ năm 2024 đến nay. (Nguồn: TradingView). |
Đối với nhóm bán lẻ xăng dầu, hai cái tên dẫn đầu và đang niêm yết trên sàn là Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex – Mã: PLX) và Tổng Công ty Dầu Việt Nam (PV OIL – Mã: OIL). Cả hai công ty này nắm lần lượt 50% và 23% thị phần bán lẻ xăng dầu.
Kết quả kinh doanh của hai đại gia bán lẻ xăng dầu này phụ thuộc vào giá dầu thế giới (Brent, WTI) tăng cao hay giảm mạnh và chính sách thuế của cơ quan Nhà nước.
PV OIL đang chịu trách nhiệm bao tiêu cho hai nhà máy lọc dầu Dung Quất và nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn. Trong khi đó, ngoài nguồn cung từ hai nhà máy lọc dầu nội địa, Petrolimex còn nhập khẩu dầu từ nước ngoài.
Theo VCBS, Petrolimex ước đạt doanh thu quý II là 79.264 tỷ đồng, tăng 8% so với cùng kỳ. Còn lợi nhuận sau thuế đạt 836 tỷ đồng, giảm 35%.
Nhóm phân tích cho biết, kết quả kinh doanh Petrolimex ghi nhận kém tích cực chủ yếu đến từ hàng tồn kho chi phí cao do giá dầu có xu hướng giảm trong quý II/2025, dẫn đến biên lợi nhuận gộp giảm, bất chấp sự hỗ trợ từ chi phí kinh doanh định mức cao hơn đối với xăng và dầu diesel.