Những điểm nhấn kinh tế Việt Nam năm 2019

00:00 12/10/2020

Năm 2019 là năm thứ 2 liên tiếp cả nước đạt toàn bộ 12 chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu, trong đó 5 chỉ tiêu vượt kế hoạch, với ước GDP cả năm tăng 6,8-6,9%. Việt Nam thuộc tốp có mức GDP năm 2019 tăng trưởng cao dẫn đầu khu vực và thế giới, được coi là quốc gia có nền kinh tế ổn định và tăng trưởng nhanh, thế và lực không ngừng được củng cố; uy tín quốc tế được nâng lên, bất chấp những khó khăn chung về kinh tế thế giới trong năm 2019. Thành quả này là cộng hưởng tích cực sự kịp thời và hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các địa phương và cộng đồng doanh nghiệp cả nước trong thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

Môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện

Việt Nam được xếp thứ 8 trong số các nền kinh tế tốt nhất thế giới để đầu tư năm 2019, tăng 15 bậc so với năm 20184; năng lực cạnh tranh của Việt Nam được Diễn đàn Kinh tế Thế giới xếp thứ 67/141 quốc gia, vùng lãnh thổ, tăng 10 bậc so với năm 2018; Chỉ số năng lực cạnh tranh ngành du lịch cũng tăng 2 bậc so với năm trước; Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam tăng 3 bậc, xếp thứ 42/129 quốc gia, vùng lãnh thổ; đứng thứ nhất trong nhóm 26 quốc gia thu nhập trung bình thấp và thứ 3 trong ASEAN. Chỉ số xếp hạng về an toàn thông tin mạng của Việt Nam tăng 50 bậc, xếp thứ 50/175 quốc gia, vùng lãnh thổ. Theo Báo cáo môi trường kinh doanh – Doing business 2020 (DB 2020) toàn cầu vừa được Ngân hàng Thế giới công bố, chỉ số nộp thuế (Paying Taxes, với các tiêu chí như: số giờ nộp thuế; số lần nộp thuế trong năm; tổng mức thuế suất trên lợi nhuận; chỉ số sau kê khai (hoàn thuế giá trị gia tăng, thanh/kiểm tra thuế thu nhập doanh nghiệp) đã tăng 22 bậc, đưa Việt Nam từ vị trí thứ 131 lên xếp thứ 109 trong tổng số 190 quốc gia được đánh giá. Nhờ kết quả này, ngành thuế đã vượt chỉ tiêu của Chính phủ đề ra tại Nghị quyết số 02/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2020. Theo đó, mục tiêu chỉ số nộp thuế năm 2019 tăng lên 7-10 bậc, tiệm cận mục tiêu đến năm 2021 lên 30-40 bậc. Theo báo cáo DB 2020 của Ngân hàng Thế giới, phần lớn các chỉ số này đều có sự cải thiện so với năm trước đó và được ghi nhận nhờ những nỗ lực của Việt Nam. Cụ thể, thời gian nộp thuế giảm 114 giờ (từ 498 xuống 384 giờ); trong đó, 94 giờ giảm là do cải cách, đơn giản hóa tại các thủ tục về khai thuế giá trị gia tăng và 20 giờ giảm là do những cải cách, đơn giản hóa các thủ tục về nộp và quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp. Số lần nộp thuế giảm từ 10 lần năm 2019 xuống còn 6 lần năm 2020. Tổng mức thuế suất (tỷ lệ tổng thuế và đóng góp) giảm 0,2%, từ mức 37,8% năm 2019 xuống còn 37,6% năm 2020. Thời gian doanh nghiệp Việt Nam chuẩn bị nộp thuế giá trị gia tăng, bao gồm lập bảng kê hóa đơn hàng hóa, dịch vụ mua vào, bán ra theo Tờ khai thuế giá trị gia tăng đã giảm khoảng 90 giờ (từ 212 còn 122 giờ). Thời gian kê khai thuế thu nhập doanh nghiệp giảm từ 5 lần xuống 1 lần…

Số lượng doanh nghiệp thành lập mới và quay lại hoạt động tăng cao

Đây là 2 chỉ số đo lường sức khỏe môi trường kinh doanh và tạo động lực tăng trưởng chính đến nền kinh tế đã ghi nhận mức kỷ lục mới, với ước cả năm có khoảng 134 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và hàng chục nghìn doanh nghiệp hoạt động trở lại (9 tháng đầu năm có gần 102,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 34% về số vốn đăng ký và tăng 26,6% về vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 12,6 tỷ đồng, mức cao nhất trong những năm trở lại đây. Điều này cũng cho thấy “sức khỏe” tốt hơn của các doanh nghiệp mới ra nhập thị trường. Đồng thời, cả nước còn có 27,6 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 20,5% so với cùng kỳ năm trước). đến nay có gần 24 nghìn hợp tác xã kiểu mới với đa số hoạt động hiệu quả.

Sự lạc quan kinh doanh và tích cực đầu tư được khẳng đinh

Với kết quả 81,7% doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được Tổng cục Thống kê khảo sát khẳng định kinh doanh của mình trong quý III/2019 là ổn định và tich cực, tốt hơn quý II/2019; 87,9% cho rằng dự kiến quý IV/2019 xu hướng sẽ tốt lên hoặc ổn định so với quý III/2019. Vốn đầu tư nước ngoài được tiếp tục cải thiện với quy mô vốn FDI thực hiện ước đạt 14,2 tỷ USD, tăng 7,3%; tổng giá trị góp tăng 82,3% so với cùng kỳ năm 2018 và cao nhất từ trước đến nay. 

Thị trường tài chính và nền tảng kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định vững chắc

Trong điều kiện thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế biến động mạnh, Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) dưới 3%, thấp hơn mục tiêu đề ra. Thị trường tài chính, tiền tệ và tỷ giá được điều hành chủ động, linh hoạt và duy trì ổn định phù hợp; dự trữ ngoại hối đạt khoảng 73 tỷ USD. Hệ số tín nhiệm quốc gia được nâng hạng từ BB- lên BB với triển vọng “tích cực”. Năm 2019 tổng thu NSNN vượt 3,3% dự toán và là năm thứ hai liên tiếp thu ngân sách trung ương vượt dự toán. Các chỉ tiêu tổng thu, huy động vào ngân sách, thu nội địa... đạt mục tiêu kế hoạch 5 năm. Bội chi được kiểm soát cả số tuyệt đối và tương đối, với mức bội chi năm 2019 NSNN khoảng 3,4% GDP và năm 2020 ước 3,44% GDP, vượt mục tiêu dưới 3,5% GDP. Tỷ trọng chi đầu tư phát triển tăng, đạt 26,6%. Nhờ kiểm soát tốt, nợ công đã giảm một nửa so với giai đoạn trước và tăng thấp hơn tốc độ tăng GDP danh nghĩa (năm 2019, nợ công giảm còn 56,1% GDP so với mức 64,6% GDP năm 2016).

Động lực và chất lượng tăng trưởng có bước phát triển

Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội cả năm ước khoảng 33,8% GDP; Tỷ trọng đầu tư của khu vực ngoài nhà nước tăng lên 45,3%; Đầu tư tư nhân với nhiều dự án lớn được triển khai mạnh mẽ, theo đúng định hướng tăng cường thu hút các nguồn lực xã hội. Năng suất lao động tăng 5,9%; đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đạt 42,7%5. Mô hình tăng trưởng chuyển dịch tích cực, giảm dần phụ thuộc vào khai khoáng và tăng tín dụng; đóng góp của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ngày càng tăng. Khoa học công nghệ được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực; hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia phát triển mạnh. Nhiều thành tựu được ứng dụng nhanh chóng và rộng rãi, trong đó có những lĩnh vực tiệm cận và đạt trình độ khu vực, quốc tế. Hệ thống bảo hộ, thực thi quyền sở hữu trí tuệ tiếp tục được hoàn thiện. Các quỹ phát triển khoa học công nghệ phát huy hiệu quả; có hơn 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp và một số quỹ đầu tư mạo hiểm... Nhiều địa phương nỗ lực phấn đấu vươn lên, thu hút mạnh các nguồn lực, đạt tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp quan trọng cho kết quả chung của cả nước.

Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm 1-1,5% ( Còn khoảng 3,73 - 4,23%) 

Thành tích giảm nghèo của Việt Nam tiếp tục là một điểm sáng, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Đặc biệt, theo Báo cáo Chỉ số đói nghèo toàn cầu (GHI) 2019 của Cơ quan viện trợ Concern Worldwide từ Ailen và tổ chức Welt Hunger Hilfe của Đức, Việt Nam đứng thứ 62, tăng 2 bậc so với vị trí thứ 64 trên tổng số 119 nền kinh tế trong bảng xếp hạng toàn cầu. Với vị trí năm nay, Việt Nam tốt hơn một số nước láng giềng Đông Nam Á như Myanmar, Indonesia, Philippines, Campuchia và Lào. Điểm GHI được tính toán dựa trên 4 chỉ số, bao gồm suy dinh dưỡng, gầy so với chiều cao, thấp còi ở trẻ em và trẻ em tử vong. 

Chất lượng nguồn lực được cải thiện cùng với sự phát triển kết cấu hạ tầng, đô thị và thúc đẩy liên kết vùng

Xếp hạng đại học tăng 12 bậc, từ hạng 80 lên 68. Quy mô nguồn nhân lực ước đạt 55,8 triệu lao động; tỷ lệ lao động qua đào tạo cả năm khoảng 61- 62%, trong đó tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ đạt 24%; tạo thêm 1,62 triệu việc làm; mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội. Hệ thống đô thị phát triển nhanh, tỷ lệ đô thị hóa ước đạt 39,2%.

Nền kinh tế tiếp tục cơ cấu lại đúng hướng và thực chất hơn

Các ngành, lĩnh vực chủ yếu vẫn phát triển ổn định, tích cực trong bối cảnh khó khăn. Sản xuất công nghiệp tăng mạnh; trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục giữ vai trò động lực tăng trưởng kinh tế. Bảo đảm an ninh năng lượng; phát triển mạnh các dự án năng lượng tái tạo. Khu vực nông nghiệp phát triển ổn định; xây dựng và đưa vào hoạt động nhiều nhà máy chế biến lớn; xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt trên 41 tỷ USD. Xây dựng nông thôn mới đạt kết quả vượt bậc, đến cuối năm 2019 ước có khoảng 53 - 54% số xã và 110 huyện đạt chuẩn, hoàn thành trước thời hạn gần 2 năm. Khu vực dịch vụ duy trì đà tăng khá cao; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng khoảng 11,5 - 12%; thương mại điện tử tăng mạnh. Khách quốc tế ước cả năm đạt 18 triệu lượt, tăng 16,1%. Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu đạt kết quả tích cực; tỷ lệ nợ xấu nội bảng còn 1,91%; bảo đảm an toàn hệ thống. Thực hiện nhiều giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước (DNNN); tập trung xử lý các dự án, doanh nghiệp thua lỗ, thất thoát lớn, trong đó có dự án bước đầu có lãi và một số dự án từng bước khắc phục khó khăn, vận hành trở lại.

TS.NGUYỄN MINH PHONG