Tính đến nay, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã gửi hàng trăm hồ sơ kiến nghị khởi tố về tội trốn đóng bảo hiểm xã hội đến cơ quan điều tra, nhưng chưa có vụ án nào được đưa ra xét xử.
Cụ thể, từ năm 2018 đến hết ngày 31/12/2023, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã chuyển 417 hồ sơ kiến nghị khởi tố sang cơ quan điều tra. Trong số này, có 34 hồ sơ liên quan đến tội gian lận bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp, 4 hồ sơ về tội gian lận bảo hiểm y tế, và 379 hồ sơ về tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
Đến thời điểm hiện tại, đã có 15 hồ sơ được khởi tố, trong đó có 8 bản án đã có hiệu lực pháp luật, với số tiền thi hành án lên đến hơn 2,69 tỷ đồng. Bảo hiểm xã hội đã thu hồi được hơn 2,38 tỷ đồng, chiếm 88,5% số tiền phải thi hành án.
Bộ luật Hình sự năm 2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2018) đã bổ sung các điều luật quy định về các tội danh trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội (BHXH), trong đó có: Tội gian lận BHXH, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) - Điều 214, Tội gian lận bảo hiểm y tế (BHYT) - Điều 215 và Tội trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN - Điều 216.
Tuy nhiên, theo thông tin từ Vụ Pháp chế, chưa có vụ án nào liên quan đến tội trốn đóng bảo hiểm xã hội (Điều 216) được đưa ra xét xử. Lý do là cơ quan công an cho rằng hành vi vi phạm chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm và chưa đủ điều kiện thụ lý. Cụ thể, có 220 hồ sơ không được khởi tố do không có dấu hiệu tội phạm hoặc đã được chuyển xử lý hành chính; 23 hồ sơ đang tạm đình chỉ giải quyết; 2 hồ sơ đã bị tạm đình chỉ hoặc đình chỉ; và 103 hồ sơ vẫn đang được xem xét, giải quyết.
Chia sẻ về những khó khăn trong việc khởi kiện liên quan đến hành vi trốn đóng BHXH, Vụ Pháp chế cho biết, trong quá trình thực hiện lập, gửi hồ sơ kiến nghị khởi tố, cơ quan BHXH các địa phương còn gặp một số vướng mắc.
Một trong những vướng mắc trong việc xử lý hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội là cơ quan công an cho rằng hành vi chậm đóng chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm do không có yếu tố gian dối hoặc thủ đoạn khác. Theo Vụ Pháp chế, thực tế cho thấy hầu hết các hồ sơ kiến nghị khởi tố mà cơ quan BHXH gửi đều liên quan đến hành vi chậm đóng.
Trong nhiều trường hợp, đơn vị sử dụng lao động đã kê khai đầy đủ số người tham gia bảo hiểm, số tiền phải đóng, và khấu trừ tiền lương của người lao động để đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, và bảo hiểm thất nghiệp, nhưng chưa thực hiện nghĩa vụ đóng. Cơ quan công an xác định rằng không có dấu hiệu gian dối hoặc thủ đoạn khác trong các trường hợp này, do đó không đủ điều kiện cấu thành tội phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 216.
Ngoài ra, còn tồn tại vướng mắc liên quan đến dấu hiệu “đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm”. Cơ quan điều tra không thụ lý hồ sơ khi quyết định xử phạt vi phạm hành chính được ban hành cho hành vi chậm đóng, vì vậy không đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Thêm vào đó, biên bản xử phạt hành chính chỉ xác định trách nhiệm của đơn vị sử dụng lao động, nên việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân không có cơ sở.
Cũng có sự khác biệt trong việc hiểu dấu hiệu “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”. Một số quan điểm cho rằng dấu hiệu này liên quan đến việc vi phạm cùng hành vi đã bị xử phạt, trong khi các quan điểm khác hiểu là hành vi vi phạm tiếp tục diễn ra sau khi đã bị phạt. Bên cạnh đó, nếu đơn vị sử dụng lao động đã kê khai đầy đủ nhưng không đóng do khó khăn tài chính mà không có gian dối, cơ quan điều tra có ý kiến rằng việc này nên được xử lý bằng vụ án dân sự.
Vụ Pháp chế cho biết việc khởi kiện của tổ chức công đoàn gặp nhiều khó khăn, dẫn đến việc không thực hiện được, do khó khăn trong việc thực hiện quy định về ủy quyền của người lao động và thực tế triển khai của tổ chức công đoàn.
Do đó, cơ quan BHXH gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định hành vi trốn đóng để xử lý hành chính làm cơ sở cho việc xử lý hình sự. Mặt khác, Điều 216 hiện chỉ áp dụng đối với pháp nhân và khó áp dụng đối với cá nhân vì chưa có quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân là người quản lý, điều hành, hay người đại diện theo pháp luật của đơn vị sử dụng lao động.
An Thảo