Viện trưởng CIEM Trần Thị Hồng Minh cho rằng, đã đến lúc phải nghiên cứu điều chỉnh tăng giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Đã đến lúc cần cân nhắc nới room cho nhà đầu tư nước ngoài
Phát biểu khai mạc tại Hội thảo công bố báo cáo diễn ra chiều nay 15/12, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM cho biết, việc nâng cao năng lực quản trị và cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng luôn là một trong những yêu cầu trọng tâm được chú trọng nhằm đáp ứng mục tiêu duy trì ổn định kinh tế vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình cải cách và hội nhập. Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng cũng như trong thu hút FDI nói chung đều hướng tới tiếp cận nguồn lực tài chính, và kỹ năng quản trị, công nghệ tiên tiến của các nhà đầu tư nước ngoài.
Quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng – tài chính của Việt Nam trong những năm qua đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần quan trọng trong bình ổn vĩ mô, duy trì sự ổn định và an toàn của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng thương mại vẫn yếu về tiềm lực tài chính cũng như năng lực quản trị, khả năng cạnh tranh.
Bà Minh cũng cho biết, mới đây nhất, Nghị quyết số 31/2021/QH15 của Quốc hội về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 đã đề ra nhiệm vụ trọng tâm về tiếp tục cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng. Cùng với đó là nhiệm vụ tăng cường năng lực tài chính, quản trị và chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại. “Vấn đề đặt ra trong việc dự thảo các mục tiêu chương trình này là khả năng tiếp thu của các ngân hàng thương mại trong nước đối với các kỹ năng quản trị, công nghệ từ phía nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, một vấn đề khác mà chúng tôi cũng đang băn khoăn là liệu các quy định hiện hành về giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các tổ chức tín dụng Việt Nam có ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu hay không”, bà Minh nêu câu hỏi
Xuất phát từ góc nhìn này, Viện trưởng CIEM nhấn mạnh đã đến lúc cần đặt vấn đề phải nghiên cứu xem xét điều chỉnh tăng giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Do đó, báo cáo vừa được CIEM hoàn thành và công bố cùng các ý kiến đóng góp của các chuyên gia trong và ngoài nước sẽ giúp các cơ quan hoạch định chính sách có thêm thông tin, cơ sở và động lực để nghiên cứu chi tiết hơn khả năng điều chỉnh giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, trong đó có cân nhắc các yếu tố khác có liên quan như tự do hóa tài khoản vốn, mức độ cam kết trong các FTA.
Bà Minh cũng cho rằng, việc mạnh dạn nghiên cứu khả năng điều chỉnh tăng giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần đối với nhà đầu tư nước ngoài vào cũng mang lại kỳ vọng cho các NHTM Việt Nam trong việc thu hút thêm nguồn vốn nước ngoài, đi kèm với các bí quyết quản trị, công nghệ, góp phần tái cấu trúc lại ngân hàng một cách hiệu quả hơn.
3 mục tiêu chính của việc điều chỉnh tỷ lệ sở hữu
Chia sẻ cụ thể tại Hội thảo công bố, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp của CIEM nhấn mạnh Báo cáo “Nghiên cứu tính cần thiết của việc điều chỉnh tăng giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng thương mại Việt Nam” đáp ứng ba mục tiêu chính: Xác định những lợi ích và thách thức đối với Việt Nam khi điều chỉnh tăng giới hạn đối với tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng thương mại Việt Nam; Tăng cường nhận thức về sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài đối với việc sở hữu cổ phần tại các ngân hàng thương mại Việt Nam; kiến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước về nghiên cứu điều chỉnh tăng giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Báo cáo thống kê từ các nguồn về cơ cấu tỷ lệ sở hữu của các ngân hàng thương mại tại thời điểm tháng 4/2021, trong đó cho thấy một số ngân hàng đã có tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài chạm trần 30% hoặc gần chạm trần 30%, và còn nhiều ngân hàng khác có tỷ lệ thấp hơn mức trần 30%.
Cân nhắc lợi ích và thách thức từ việc nới room
Theo phân tích của ông Dương, việc điều chỉnh tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng thương mại Việt Nam có thể mang lại một số lợi ích như:Tăng khả năng đáp ứng tiêu chuẩn Basel II cho các ngân hàng thương mại Việt Nam; Hỗ trợ thực hiện hiệu quả các cam kết về giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các NHTM trong các FTA, đặc biệt là EVFTA, theo đó cân nhắc tích cực đề xuất của các định chế tài chính EU về việc nắm giữ tối đa 49% vốn điều lệ tại 2 thương mại cổ phần trong nước trong vòng 5 năm sau khi EVFTA có hiệu lực, trừ Vietcombank, Vietinbank, BIDV và Agribank. Bên cạnh đó, việc nâng giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài sẽ tăng khả năng thu hút đầu tư và tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược cho các ngân hàng, đồng thời, tỷ lệ room khi được nâng lên một cách hợp lý cũng góp phần tránh được rủi ro nhà đầu tư nước ngoài chi phối hoạt động của ngân hàng thương mại.
Lý giải một cách cụ thể hơn, ông Dương cho rằng, việc nâng giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có thể cho phép các NHTM tại Việt Nam tiếp cận bình đẳng với các cơ hội tài trợ nước ngoài. “Điều này có thể giúp tránh các tác động khác nhau đến cạnh tranh ngân hàng, ít nhất là giữa các ngân hàng tư nhân, vì một số có thể được hưởng lợi sớm hơn từ việc nâng giới hạn sở hữu theo cam kết EVFTA. Thực tế hiện nay cho thấy tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài thấp có thể là do các NHTM đang chờ các cổ đông chiến lược phù hợp, nhưng các đối tác tiềm năng nhận thức được giới hạn đối với tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, do đó lo ngại họ có thể không phát huy hết vai trò chiến lược.Vì vậy, nhìn từ góc độ này, việc nới room sẽ giúp các NHTM tăng cường thu hút đầu tư và có nhiều cơ hội tìm kiếm đối tác chiến lược”, ông Dương phân tích.
Mặt khác, theo ông Dương, việc nâng giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của đầu tư nước ngoài ở mức hợp lý khó có thể dẫn đến mất kiểm soát và/hoặc mất ổn định hệ thống ngân hàng trong nước. Mấu chốt là ở chỗ phân biệt room cho nhà đầu tư nước ngoài nói chung và room cụ thể cho nhà đầu tư chiến lược nước ngoài sẽ giúp tránh được nguy cơ này.
Tuy nhiên, bên cạnh các lợi ích mang lại, ông Dương cũng chỉ ra các thách thức và vấn đề phát sinh từ việc nâng giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài cần cân nhắc như có thể ảnh hưởng đến mức độ tuân thủ của các NHTM đối với các chính sách và chủ trương của NHNN, vấn đề hỗ trợ các chính sách an sinh xã hội, ổn định vĩ mô. Bên cạnh đó, việc nâng giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư ở mức độ nào cũng đang là vấn đề còn nhiều tranh luận lâu nay. Mặt khác, nếu thay đổi quá nhỏ về giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có thể sẽ không giúp xây dựng niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài.
Bài học từ kinh nghiệm các nước và cách tiếp cận mở
Báo cáo kiến nghị, đã đến lúc các nhà hoạch định chính sách cần cân nhắc một cách tiếp cận mở hơn trong điều tiết ngành ngân hàng.
Nhóm chuyên gia thực hiện báo cáo của CIEM cho biết, nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc, Thái Lan và Indonesia cho thấy đến nay, các nước trong khu vực đều đã cân nhắc tích cực việc điều chỉnh tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, mức độ điều chỉnh tăng và lộ trình thực hiện có sự khác biệt giữa các nước, tùy đặc thù cụ thể và quyết tâm của từng nước đối với cải thiện hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại thông qua hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, nhóm chuyên gia cũng đề xuất cần cân nhắc thêm các biện pháp khác để điều tiết và giám sát hoạt động của ngân hàng thương mại, thay vì chú trọng quá mức vào giới hạn tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại ngân hàng thương mại.
Trên cơ sở các bài học kinh nghiệm từ các nước và thực tiễn tại Việt Nam, Báo cáo kiến nghị đã đến lúc các nhà hoạch định chính sách cần cân nhắc một cách tiếp cận mở hơn trong điều tiết ngành ngân hàng, trong đó có tiếp cận mở đối với giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng thương mại. Theo đó Việt Nam cần nghiên cứu chi tiết hơn về lợi ích tiềm năng của việc điều chỉnh tăng giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng thương mại, gắn với các kịch bản điều chỉnh cụ thể.
Bên cạnh đó, CIEM cũng đề xuất, Việt Nam cần cân nhắc cập nhật chiến lược phát triển ngành ngân hàng, trong đó có cân nhắc cập nhật quan điểm về mức độ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài; Cân nhắc cải thiện khung pháp lý theo hướng hiện đại và mở, nhằm bảo đảm cạnh tranh bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng - tài chính. Đồng thời cân nhắc khả năng nâng giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại NHTM trong các đề xuất về phát triển trung tâm tài chính quốc tế, Fintech, các tổ chức trung gian thanh toán.../.