![]() |
| Lãi suất huy động tại nhiều ngân hàng thương mại đã được điều chỉnh tăng từ đầu tháng 12/2025 đến nay. |
Nhiều ngân hàng đã chạm hạn mức tín dụng được cấp
Tính đến ngày 27/11/2025, tăng trưởng tín dụng toàn ngành ngân hàng đạt 16,56%, đây là mức cao trong nhiều năm. Trong đó, nhiều ngân hàng đã gần chạm hạn mức tăng trưởng tín dụng được cấp và chỉ còn số ít ngân hàng còn dư địa.
Theo CTCP Chứng khoán Vietcap (Vietcap), đơn vị này không kỳ vọng Ngân hàng Nhà nước sẽ cấp thêm hạn mức tín dụng ở giai đoạn này.
Áp lực thanh khoản gia tăng bắt đầu từ đầu tháng 10/2025, theo ghi nhận của Vietcap, thể hiện qua việc lãi suất liên ngân hàng qua đêm tăng từ mức bình quân khoảng 4%/năm lên 6%–7%/năm.
| Áp lực thanh khoản xuất phát từ 03 yếu tố chính: yếu tố mùa vụ khi nhu cầu tín dụng thường tăng mạnh về cuối năm; khoảng cách lớn giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng huy động, và áp lực tỷ giá vẫn còn hiện hữu. |
Để hỗ trợ thanh khoản hệ thống, Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng linh hoạt kênh OMO (thị trường mở), gần đây triển khai thêm nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ (FX swap) kỳ hạn 14 ngày như một công cụ bổ sung để giảm áp lực ngắn hạn.
Đầu tháng 12/2025, Ngân hàng Nhà nước đã nâng lãi suất cho vay OMO từ 4%/năm lên 4,5%/năm, đây là một động thái phù hợp và kịp thời để điều tiết thanh khoản.
Năm 2024, thị trường đã từng chứng kiến diễn biến tương tự khi Ngân hàng Nhà nước nâng lãi suất OMO từ 4%/năm đầu năm lên 4,5%/năm vào tháng 5 trong bối cảnh áp lực thanh khoản/tỷ giá gia tăng, rồi giảm trở lại 4%/năm về cuối năm khi áp lực hạ nhiệt.
Điều này cho thấy Ngân hàng Nhà nước sẵn sàng linh hoạt hỗ trợ thanh khoản ngắn hạn thay vì siết chặt mặt bằng lãi suất. Theo quan điểm của Vietcap, việc Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất OMO gần đây đã phát đi tín hiệu rằng các ngân hàng thương mại có thể điều chỉnh tăng lãi suất huy động.
Cuộc đua lãi suất được dẫn dắt bởi ngân hàng tư nhân
Hàng loạt ngân hàng thương mại đã điều chỉnh biểu lãi suất huy động tăng kể từ đầu tháng 12/2025 đến nay.
![]() |
| Lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng sẽ là lãi suất cơ sở cộng với biên độ để tính mức lãi suất cho vay tại các ngân hàng thương mại. Nguồn: Biểu lãi suất tiền gửi của các NHTM. |
Mức lãi suất huy động cao nhất đang thuộc về Ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam (PVCombank), lên 8,3%/năm cho khách hàng gửi tiền kỳ hạn 15-36 tháng, khi tặng thêm lãi suất 1,5%/năm cho khách hàng gửi tiết kiệm trực tuyến vào các ngày thứ Sáu hằng tuần của tháng 12.
Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB) cũng dâng lãi suất lên 7,1%/năm, áp dụng cho kỳ hạn 36 tháng, với số tiền trên 500 triệu đồng. Còn ở các kỳ hạn dài khác, lãi suất hiện đạt 6,50%/năm với 18 tháng, 6,60%–6,70%/năm với 21–24 tháng và lên tới 6,90%/năm với kỳ hạn 36 tháng.
Là một trong những ngân hàng tăng mạnh nhất, Ngân hàng TMCP Lộc Phát (LPBank) vừa điều chỉnh lãi suất huy động ở toàn bộ các kỳ hạn, từ 1 đến 60 tháng. Trong đó, lãi suất trần 4,75%/năm cho tiền gửi kỳ hạn 3-5 tháng; lãi suất tiền gửi trực tuyến kỳ hạn 6-11 tháng được LPBank niêm yết mới tại 6,1%/năm, trở thành một trong số ít các ngân hàng niêm yết lãi suất vượt 6%/năm cho tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng.
Ngân hàng TMCP An Bình (ABBank) cũng là một trong số các ngân hàng vừa tham gia cuộc đua tăng lãi suất huy động, nhưng điều chỉnh với các kỳ hạn dài. Theo đó, lãi suất huy động trực tuyến và tại quầy các kỳ hạn 36 tháng, 48 tháng và 60 tháng đều được ABBank tăng rất mạnh, thêm 0,8%/năm. Mức tăng này khiến lãi suất ngân hàng trực tuyến các kỳ hạn 36, 48, 60 tháng mới nhất lên đến 6,1%/năm. Cùng kỳ hạn, lãi suất tiết kiệm tại quầy là 6%/năm. ABBank giữ nguyên lãi suất tiền gửi các kỳ hạn từ 1-24 tháng, kể cả với lãi suất tiền gửi trực tuyến và tại quầy.
Ngân hàng TMCP Bảo Việt (BaoViet Bank) cũng vừa điều chỉnh tăng lãi suất huy động các kỳ hạn từ 6 đến 36 tháng, với mức tăng đồng loạt 0,2%/năm. Lãi suất ngân hàng trực tuyến kỳ hạn 12 tháng chính thức cán mốc 6%/năm, trong khi lãi suất các kỳ hạn từ 13-36 tháng được niêm yết mới tại 6,1%/năm. Đây cũng là mức lãi suất huy động cao nhất do BaoViet Bank niêm yết. Ngân hàng giữ nguyên lãi suất các kỳ hạn từ 1-5 tháng, với 4,5%/năm áp dụng cho kỳ hạn 1-2 tháng và 4,65%/năm kỳ hạn 3-5 tháng.
Ngày 16/12/2025, 04 ngân hàng thương mại nhà nước gồm: Agribank, Vietcombank, Vietinbank và BIDV cũng đồng loạt điều chỉnh tăng lãi suất tiết kiệm tại quầy ở tất cả kỳ hạn, đưa mặt bằng lãi suất của các ngân hàng này lên mức cao nhất 5,3% ở kỳ hạn 24 tháng. Với kỳ hạn 12 tháng, 04 ngân hàng này đồng loạt niêm yết ở mức 5,2%/năm. Kỳ hạn 9 tháng, Agribank ở mức 3,8%/năm và 03 ngân hàng còn lại cùng đạt 3,5%/năm…
Với lần điều chỉnh này, lãi suất tiền gửi 12 tháng niêm yết của Vietcombank, BIDV và Vietinbank ở mức 5,2%/năm, vẫn thấp hơn 30–40 điểm cơ bản so với đáy thời Covid-19 giai đoạn 2020–2021 và thấp hơn khoảng 160 điểm cơ bản so với mức trước Covid-19. Điều này cho thấy mặt bằng lãi suất tuyệt đối như vậy vẫn mang tính hỗ trợ cho nền kinh tế.
Như vậy, đợt tăng lãi suất gần đây chủ yếu được dẫn dắt bởi các ngân hàng tư nhân, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ, tập trung vào khách hàng bán lẻ.
Các ngân hàng tư nhân quy mô nhỏ, như: KienLongBank, GPBank, PVComBank, BVBank, SaigonBank... gần đây chào lãi suất huy động (bao gồm cả các chương trình khuyến mãi) cho một số nhóm khách hàng chọn lọc ở mức khoảng 7,5%–8,1%/năm cho kỳ hạn 6–12 tháng.
Tính bình quân gia quyền theo quy mô tiền gửi, các ngân hàng tư nhân đã tăng lãi suất huy động khoảng 50–64 điểm cơ bản tùy kỳ hạn trong 03 tháng vừa qua, Vietcap tính toán.
Về biên độ lãi suất chào, các ngân hàng tư nhân đã nâng lãi suất niêm yết khoảng 20–140 điểm cơ bản trên các kỳ hạn khác nhau kể từ đầu năm (lưu ý rằng lãi suất huy động đã giảm nhẹ trong giai đoạn tháng 3–5 theo chỉ đạo của Chính phủ).
Khối ngân hàng thương mại Nhà nước cũng tham gia điều chỉnh tăng lên tới khoảng 50 điểm cơ bản lãi suất huy động niêm yết trên hầu hết các kỳ hạn, sau khi giữ ổn định từ giữa năm 2023 đến nay.
“Động thái này không bất ngờ xét tới việc các ngân hàng tư nhân đã tăng lãi suất trước đó và Ngân hàng Nhà nước đã nâng lãi suất OMO thêm 50 điểm cơ bản”, Vietcap nhận định.
Các ngân hàng tích cực đa dạng hóa nguồn vốn
Bên cạnh kênh tiền gửi và hỗ trợ thanh khoản từ Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng cũng đang đa dạng hóa cơ cấu nguồn vốn bằng cách: phát hành giấy tờ có giá (trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi); huy động vốn nước ngoài (ví dụ MBB gần đây đã huy động được khoản vay hợp vốn xanh 500 triệu USD, được các ngân hàng quốc tế đăng ký vượt mức); và tăng vốn chủ sở hữu mới.
Theo Vietcap, áp lực tăng lãi suất huy động hiện tại vẫn trong tầm kiểm soát và mặt bằng lãi suất tuyệt đối nhìn chung vẫn mang tính hỗ trợ. Kỳ vọng Ngân hàng Nhà nước sẽ duy trì lập trường chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng GDP 10% năm 2026 của Chính phủ.
Thanh khoản ngắn hạn đang được Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ tích cực và theo xu hướng lịch sử, tình trạng căng thẳng thanh khoản thường bắt đầu hạ nhiệt từ tháng 3 sau kỳ nghỉ Tết.
Trong trung hạn, thanh khoản và nguồn vốn hệ thống sẽ tiếp tục được hỗ trợ bởi: các đợt cắt giảm lãi suất bổ sung của Fed; việc đẩy mạnh giải ngân đầu tư công; các ngân hàng đa dạng hóa hơn nữa kênh huy động vốn; và khu vực hộ kinh doanh/buôn bán quay lại gửi tiền vào hệ thống ngân hàng khi thích nghi dần với các quy định thuế và hóa đơn điện tử mới.
Vẫn còn áp lực từ NIM
Kỳ vọng áp lực lên NIM (biên lãi ròng) sẽ còn tiếp diễn trong ngắn hạn ở quý 4/2025 và quý 1/202, khi chi phí vốn tăng do lãi suất liên ngân hàng/lãi suất huy động cao hơn tiếp tục gây sức ép lên NIM.
Tuy nhiên, NIM sẽ tạo đáy trong năm 2025 và có thể ổn định hoặc nhích tăng nhẹ trong năm 2026. Sự cải thiện này được hỗ trợ bởi: nhu cầu tín dụng duy trì vững trong bối cảnh nguồn cung bị ràng buộc hơn, giúp môi trường định giá lãi vay trở nên hợp lý hơn (nhiều ngân hàng đã dừng các chương trình cho vay lãi suất ưu đãi trong vài tuần gần đây); tăng trưởng cho vay bán lẻ mạnh hơn; giải ngân các khoản vay trung– dài hạn (như cho vay mua nhà, dự án hạ tầng...) tăng lên; chất lượng tài sản cải thiện.
Dù vậy, NIM vẫn là biến số bất định lớn nhất của ngành ngân hàng trong năm 2026 và rủi ro giảm vẫn hiện hữu nếu tình trạng căng thẳng thanh khoản kéo dài hơn kỳ vọng.