![]() |
| Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Thanh Hà |
Phát biểu tại Diễn đàn chuyên đề “Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2026–2030” ngày 16/12, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Thanh Hà nhấn mạnh, mục tiêu tăng trưởng hai con số đòi hỏi nền kinh tế phải duy trì tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, ổn định và bền vững trong nhiều năm liền.
Theo Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà, một trong những yếu tố mang tính quyết định là bảo đảm đủ nguồn vốn cho nền kinh tế, đồng thời phân bổ và sử dụng hiệu quả để thúc đẩy mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đây không chỉ là bài toán về quy mô vốn, mà còn là bài toán về chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn lực.
Cung cấp thêm bức tranh về dòng vốn tín dụng, bà Hà Thu Giang, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước), cho biết đến ngày 27/11, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế đã vượt 18,2 triệu tỷ đồng, tăng 16,56% so với cuối năm 2024 và gần gấp đôi so với đầu giai đoạn trước. Cơ cấu tín dụng tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực, phù hợp với cơ cấu các ngành kinh tế, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên.
Trong đó, tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn chiếm khoảng 23% tổng dư nợ; doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm khoảng 19%. Đáng chú ý, tín dụng đối với doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao và công nghiệp hỗ trợ ghi nhận tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân lần lượt đạt 17,5% và 19,9% trong giai đoạn vừa qua.
Cùng với các kênh vốn khác, tín dụng ngân hàng thời gian qua đã đóng vai trò then chốt trong việc cung ứng nguồn tài chính cho nhiều dự án, công trình trọng điểm của nền kinh tế. Tuy nhiên, theo bà Hà Thu Giang, áp lực đối với hệ thống ngân hàng đang ngày càng gia tăng khi nhu cầu vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn, tiếp tục tăng mạnh.
Thực tế cho thấy, thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường chứng khoán vẫn gặp nhiều khó khăn, chưa phát huy đầy đủ vai trò là kênh cung ứng vốn trung và dài hạn chủ yếu. Trong khi đó, các tổ chức tín dụng lại phải đối mặt với rủi ro kỳ hạn, bởi nguồn vốn cho vay chủ yếu đến từ tiền gửi ngắn hạn, hiện chiếm khoảng 80% tổng tiền gửi của hệ thống ngân hàng.
“Nhu cầu vốn trung, dài hạn cho các dự án, công trình trọng điểm quốc gia là rất lớn, tạo áp lực không nhỏ cho các tổ chức tín dụng trong việc cân đối nguồn vốn và kiểm soát rủi ro”, bà Giang nhận định.
Từ góc nhìn của Hiệp hội Ngân hàng, TS. Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội, cho rằng hệ thống ngân hàng đã và đang nỗ lực rất lớn để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu tiếp tục dựa chủ yếu vào tín dụng ngân hàng cho mục tiêu tăng trưởng cao, rủi ro đối với hệ thống tài chính sẽ ngày càng gia tăng.
Theo ông Hùng, trong bối cảnh các ngân hàng phải tiến tới tuân thủ các chuẩn mực quốc tế cao hơn như Basel III, áp lực về nợ xấu, thanh khoản và chi phí vốn hoàn toàn có thể quay trở lại nếu tín dụng tăng trưởng nhanh trong khi thị trường vốn phát triển chưa tương xứng. Điều này đòi hỏi phải có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung nhiều hơn vào sản xuất – kinh doanh, hạn chế dòng vốn chảy vào các lĩnh vực mang tính đầu cơ, nhằm bảo đảm nền tảng tăng trưởng bền vững.
Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế, đại diện Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cũng lưu ý rằng, tại nhiều quốc gia, giai đoạn tăng trưởng tín dụng nóng trong quá khứ thường đi kèm với sự gia tăng nợ xấu và áp lực lớn lên bảng cân đối kế toán của các ngân hàng.
Theo IMF, để duy trì tăng trưởng cao một cách bền vững, Việt Nam cần tập trung nâng cao tiềm năng tăng trưởng dài hạn thông qua cải cách cơ cấu, cải thiện năng suất và nâng cao hiệu quả thực thi chính sách. Song song với đó, việc củng cố giám sát ngân hàng, tăng cường tính minh bạch và từng bước dựa nhiều hơn vào các công cụ thị trường là những yêu cầu không thể thiếu trong giai đoạn tới.