VCCI kiến nghị cơ quan soạn thảo loại bỏ nhiều quy định được cho là tạo gánh nặng không cần thiết cho doanh nghiệp, đi ngược tinh thần cải cách và phát triển kinh tế tư nhân theo Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Trên cơ sở tổng hợp ý kiến từ cộng đồng doanh nghiệp, VCCI cho rằng việc sửa đổi cần quán triệt tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó nhấn mạnh yêu cầu giảm thiểu sự can thiệp hành chính, xóa bỏ tư duy “không quản được thì cấm”, tạo lập môi trường kinh doanh minh bạch, dễ tuân thủ và chi phí thấp.
Một trong những nội dung được VCCI đặc biệt lưu ý là quy định yêu cầu doanh nghiệp xuất khẩu gạo phải sở hữu kho chứa thóc, gạo. Theo dự thảo, doanh nghiệp không được sử dụng kho thuê, dù vẫn đảm bảo năng lực vận hành và dự trữ.
VCCI cho rằng đây là quy định không hợp lý trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, bởi doanh nghiệp thuê kho vẫn có thể đáp ứng yêu cầu lưu trữ và vận hành. Việc phân biệt giữa “sở hữu” và “thuê” là không cần thiết, không phản ánh đúng bản chất quản lý rủi ro và lại tạo thêm rào cản gia nhập thị trường, đặc biệt đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Trong khi đó, quan điểm của cơ quan soạn thảo cho rằng thương nhân thuê kho sẽ có giá thành cạnh tranh hơn so với doanh nghiệp đầu tư xây kho. Tuy nhiên, theo VCCI, đây là nhận định không đúng thực tế, bởi chi phí thuê kho vẫn là một khoản chi phí kinh doanh hợp pháp, được tính vào giá thành sản phẩm. Giá thành cao hay thấp là do mô hình hoạt động và năng lực từng doanh nghiệp, không phải yếu tố Nhà nước cần điều tiết bằng quy định hành chính.
![]() |
VCCI đề nghị bỏ yêu cầu doanh nghiệp xuất khẩu gạo phải sở hữu kho và dự trữ tối thiểu |
Dự thảo quy định thương nhân mới phải dự trữ tối thiểu 1.250 tấn gạo trong vòng 45 ngày sau khi được cấp phép, và duy trì lượng dự trữ cho đến khi có thành tích xuất khẩu. VCCI đánh giá đây là điều kiện quá khắt khe, gây trở ngại lớn cho doanh nghiệp mới gia nhập thị trường. Trong giai đoạn chưa ký được hợp đồng xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ phải bỏ ra một lượng vốn lớn để nhập và lưu kho gạo, đồng thời chịu thêm chi phí bảo quản và rủi ro biến động giá.
Việc xác định thời điểm chính xác được cấp giấy phép để chuẩn bị hàng tồn kho cũng không đơn giản, khiến doanh nghiệp dễ rơi vào thế bị động. Do vậy, VCCI kiến nghị bỏ quy định này để tránh làm khó doanh nghiệp mới, nhất là khi Việt Nam đang nỗ lực cải thiện chỉ số gia nhập thị trường.
Một nội dung khác trong dự thảo là quy định thu hồi giấy phép kinh doanh xuất khẩu gạo nếu Bộ Công Thương không nhận được báo cáo về mức dự trữ lưu thông của doanh nghiệp sau 45 ngày kể từ khi gửi văn bản đôn đốc. Theo VCCI, việc yêu cầu doanh nghiệp báo cáo là cần thiết để phục vụ công tác quản lý, nhưng nếu doanh nghiệp chậm báo cáo thì nên xử lý theo hướng xử phạt hành chính, không nên thu hồi giấy phép – vốn là một chế tài rất nặng.
Việc thu hồi giấy phép chỉ nên áp dụng với trường hợp doanh nghiệp không còn đáp ứng điều kiện kinh doanh, không đủ tư cách tiếp tục hoạt động, thay vì áp dụng cứng nhắc cho lỗi mang tính hành chính.
VCCI cũng không đồng tình với đề xuất cấm ủy thác xuất khẩu gạo trong trường hợp doanh nghiệp chưa có giấy phép. Theo phản ánh từ các doanh nghiệp, quy định này khiến nhiều doanh nghiệp có năng lực sản xuất gạo đạt tiêu chuẩn nhưng chưa đủ điều kiện cấp phép bị mất cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế thông qua hình thức ủy thác.
Theo VCCI, việc ủy thác xuất khẩu là hoàn toàn phù hợp với Luật Thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành, bởi mặt hàng gạo không thuộc danh mục cấm hoặc tạm dừng xuất khẩu. Nếu dự thảo giữ nguyên quy định cấm, sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu gạo, thậm chí có nguy cơ khiến nhiều doanh nghiệp phải đóng cửa.
Từ những phân tích trên, VCCI khẳng định: Các quy định như bắt buộc sở hữu kho chứa, dự trữ tối thiểu, thu hồi giấy phép vì chậm báo cáo hay cấm ủy thác xuất khẩu đều là những rào cản không cần thiết, làm méo mó môi trường cạnh tranh và làm suy giảm năng lực thị trường của doanh nghiệp, nhất là nhóm doanh nghiệp nhỏ và mới tham gia xuất khẩu.