Sáng 10/12, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV đã biểu quyết thông qua Luật Quy hoạch (sửa đổi) với 428/445 đại biểu có mặt tán thành. Trước đó, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng – được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền – trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh lý dự thảo Luật.
Luật Quy hoạch (sửa đổi) lần này tập trung bổ sung, điều chỉnh một số nội dung mang tính nguyên tắc chung đối với quy hoạch chi tiết ngành. Các nội dung được hoàn thiện gồm: yêu cầu và nguyên tắc lập quy hoạch; mối quan hệ với quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh; hồ sơ, công bố, lưu trữ và chia sẻ dữ liệu quy hoạch; cùng cơ chế đánh giá sự phù hợp của dự án đầu tư với quy hoạch.
![]() |
| Thông qua Luật Quy hoạch (sửa đổi), làm rõ vai trò quy hoạch vùng và quy hoạch chi tiết ngành |
Theo dự thảo, các luật chuyên ngành sẽ quy định chi tiết về trình tự lập, thẩm định, phê duyệt, điều chỉnh và nội dung quy hoạch chi tiết ngành, quy hoạch đô thị và nông thôn. Việc này nhằm đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ nhưng vẫn linh hoạt theo đặc thù từng lĩnh vực.
Liên quan đến ý kiến cho rằng khái niệm “quy hoạch chi tiết ngành” chưa phân biệt rõ với “quy hoạch ngành”, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng khẳng định dự thảo đã quy định đầy đủ: quy hoạch chi tiết ngành là bước cụ thể hóa quy hoạch cấp quốc gia, vùng và tỉnh, làm rõ phương án phát triển và phân bố không gian đối với ngành kết cấu hạ tầng và tài nguyên. Như vậy, nội dung quy hoạch chi tiết ngành có mức độ chi tiết cao hơn so với quy hoạch ngành nhằm phục vụ hiệu quả quản lý và triển khai thực tế.
Dự thảo Luật được chỉnh lý theo hướng xác định danh mục quy hoạch chi tiết ngành dựa trên chức năng cụ thể hóa, tránh trùng lặp và bảo đảm phản ánh đúng tính chất của từng loại quy hoạch.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội và Ủy ban Kinh tế – Tài chính, cơ quan soạn thảo đã sửa đổi Điều 29 để làm rõ vai trò của quy hoạch vùng trong hệ thống quy hoạch quốc gia. Quy hoạch vùng có chức năng định hướng phát triển, tổ chức không gian và phân bổ nguồn lực đối với những vấn đề mang tính liên ngành, liên tỉnh; đặc biệt là hạ tầng thiết yếu như giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế và bảo vệ môi trường.
Trong dự thảo, “quy hoạch vùng” được xác định là công cụ cụ thể hóa định hướng phát triển và liên kết vùng; đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, kết nối liên ngành và liên địa phương trong phạm vi một vùng lãnh thổ. Trong khi đó, quy hoạch tỉnh tập trung vào phương án phát triển trên địa bàn từng tỉnh, phạm vi liên xã.
Việc duy trì quy hoạch vùng được đánh giá là cần thiết để thực thi chủ trương “tổ chức không gian lãnh thổ quốc gia hợp lý, phát huy lợi thế từng vùng, tăng cường liên kết nội vùng – liên vùng và tạo không gian phát triển mới” như nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm và các nghị quyết phát triển vùng của Đảng.
Nếu bỏ quy hoạch vùng, nhiều vấn đề liên tỉnh – nhất là về hạ tầng liên kết vùng, quản lý tài nguyên nước, rừng và đa dạng sinh học – sẽ thiếu định hướng giải quyết, dễ dẫn tới lãng phí, thiếu hiệu quả và làm giảm tính bền vững trong phát triển.
Theo quy định mới, các loại quy hoạch sẽ được phê duyệt theo trình tự: Quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc gia và quy hoạch ngành, quy hoạch vùng được phê duyệt sau quy hoạch tổng thể quốc gia; tiếp theo là quy hoạch tỉnh; sau cùng là quy hoạch chi tiết ngành được cụ thể hóa theo từng lĩnh vực.
Về mối quan hệ giữa quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn với quy hoạch tỉnh, Luật nêu rõ: quy hoạch chung và quy hoạch phân khu (trong trường hợp không phải lập quy hoạch chung) sẽ được phê duyệt sau khi quy hoạch tỉnh được phê duyệt. Thứ tự phê duyệt giữa các cấp độ quy hoạch đô thị và nông thôn thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành.
Việc thống nhất trình tự này nhằm bảo đảm tính liên kết, đồng bộ giữa các ngành, lĩnh vực và địa phương, đồng thời phù hợp với định hướng phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh, hạ tầng và môi trường của từng địa phương.