![]() |
Miễn visa cho tỷ phú, Việt Nam hy vọng sẽ mở thêm cánh cửa để thu hút đầu tư. Ảnh: Nhiều người dân thủ đô và du khách quốc tế tỏ ra bất ngờ khi bắt gặp Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và CEO Nvidia Jensen Huang cùng đi uống bia Tạ Hiện, dạo phố cổ. |
Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 2 và hai tháng đầu năm diễn ra mới đây vào ngày 5/3, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Ngoại giao, Bộ Công an và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nghiên cứu chính sách visa phù hợp, đặc biệt là các nước bạn bè truyền thống, đa dạng hóa việc miễn visa với một số quốc gia và đối tượng như tỷ phú trên thế giới.
Hai ngày sau đó, vào ngày 7/3, Việt Nam tiếp tục công bố miễn visa thêm ba năm cho công dân 12 nước Đức, Pháp, Italy, Tây Ban Nha, Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy và Phần Lan. Thời gian lưu trú đến 45 ngày, tính từ ngày nhập cảnh. Trước đó, ngày 15/1, Chính phủ ban hành nghị quyết về miễn thị thực cho công dân Ba Lan, Czech và Thụy Sĩ từ 1/3 đến 31/12.
Đây là những động thái mới nhất của chính phủ trong vấn đề nới lỏng chính sách visa, nhằm góp phần thu hút khách quốc tế và kích cầu phát triển du lịch.
Nhằm phân tích sâu hơn về tác động của chính sách nới lỏng thị thực đối với ngành du lịch, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập đã có cuộc trò chuyện cùng Tiến sĩ Justin Matthew Pang, Quyền Chủ nhiệm cấp cao bộ môn Quản trị Du lịch và Khách sạn, Khoa Kinh doanh, Đại học RMIT Việt Nam, để lắng nghe những góc nhìn chuyên môn về cơ hội, thách thức và tiềm năng phát triển từ chính sách này.
![]() |
Tiến sĩ Justin Matthew Pang, Quyền Chủ nhiệm cấp cao bộ môn Quản trị Du lịch và Khách sạn, Khoa Kinh doanh, Đại học RMIT Việt Nam |
PV: Chính phủ Việt Nam đang hướng tới mở rộng chính sách visa, đặc biệt với nhóm khách quốc tế quan trọng như tỷ phú và nhà đầu tư. Theo ông, động thái này có thể đem lại lợi ích gì cho nền kinh tế và du lịch Việt Nam?
Tiến sĩ Justin Matthew Pang: Với việc mở rộng chính sách thị thực cho các tỷ phú và nhà đầu tư nước ngoài, nền kinh tế Việt Nam sẽ có thêm nhiều cơ hội thu hút đầu tư lớn hơn từ những phân khúc cụ thể này.
Điều này cũng sẽ thúc đẩy các đơn vị kinh doanh dịch vụ du lịch và khách sạn trong nước xây dựng các công trình, tiện ích phù hợp với những nhóm khách này. Hiệu ứng lan tỏa từ đây sẽ dẫn đến việc có thêm nhiều dịch vụ và cơ sở cao cấp hơn để phục vụ nhu cầu du lịch của cả người dân địa phương và khách nước ngoài.
PV: Ngoài yếu tố visa, du lịch Việt Nam cần có những chính sách bổ trợ gì để thực sự khai thác tối đa nguồn khách cao cấp, từ tỷ phú đến những khách quốc tế có mức chi tiêu lớn?
Tiến sĩ Justin Matthew Pang: Để bổ trợ cho các quy định visa được đề xuất, Việt Nam cũng cần xây dựng và triển khai các chính sách khác. Ví dụ, nên cân nhắc giảm thuế cho những nhà đầu tư giá trị cao. Ngoài ra, nên xây dựng một hệ thống khởi nghiệp và quy trình thành lập doanh nghiệp thân thiện hơn, ít thủ tục hành chính hơn cũng sẽ rất hữu ích.
Chính sách thị thực cũng cần song hành với quy trình chuyển tiền dễ dàng cho các khoản đầu tư. Các cơ sở hạ tầng như tòa nhà văn phòng, nhà ở, trường học và các cơ sở bán lẻ cũng nên được xây dựng kịp thời để đảm bảo các nhà đầu tư có hệ thống hỗ trợ thuận tiện.
Cuối cùng, Chính phủ Việt Nam cũng nên triển khai các chiến dịch và chương trình quảng bá để người dân địa phương biết đến những cư dân và nhà đầu tư nước ngoài đang đến Viẹt Nam, nhằm tạo nên một cộng đồng thân thiện và chào đón họ.
![]() |
Ông Tim Cook - CEO Apple giơ tay chào trong chuyến thăm tới thành phố Hà Nội |
PV: Việc đa dạng hóa đối tượng được miễn visa, bao gồm khách từ các quốc gia "bạn bè truyền thống", có thể giúp Việt Nam tạo dựng lợi thế cạnh tranh gì so với các nước trong khu vực. Đối với các nước bạn bè truyền thống ấy, chính sách visa ưu đãi có nên được triển khai theo hướng nào để vừa thu hút du lịch, vừa thúc đẩy hợp tác kinh tế, thưa ông?
Tiến sĩ Justin Matthew Pang: Bằng cách miễn thị thực cho các nhóm đối tượng khác nhau, Việt Nam sẽ giảm thủ tục hành chính để tạo điều kiện cho các nhóm này đến thăm Việt Nam, qua đó tăng cơ hội đón nhiều du khách quay trở lại hơn. Điều này sẽ khiến du khách chi tiêu cao hơn và tăng doanh thu từ ngành du lịch. Với lượng du khách lớn hơn, người Việt Nam cũng sẽ tiếp cận được và thấu hiểu hơn nhu cầu của những nhóm khách cụ thể này, cũng như am hiểu hơn về văn hóa, chuẩn mực và lối sống của họ.
Nhìn chung, việc dễ dàng nhập cảnh sẽ thu hút nhiều du khách quốc tế đến Việt Nam hơn, qua đó thúc đẩy vị thế của Việt Nam là một điểm đến hấp dẫn và phát triển mạnh mẽ về du lịch cũng như kinh doanh.
Theo tôi, các chính sách visa ưu đãi nên phục vụ lợi ích của cả Việt Nam và các quốc gia đối tác. Cả hai bên nên chia sẻ cùng một quy tắc ứng xử về quyền nhập cảnh vào lãnh thổ của nhau. Đồng thời, các chính sách không thể cứng nhắc, mà phải thích ứng với nhu cầu riêng biệt của khách du lịch và khách doanh nhân, ví dụ như cấp thị thực nhập cảnh nhiều lần (đặc biệt trong mùa du lịch cao điểm) cho khách du lịch và thị thực dài hạn cho nhà đầu tư.
Việt Nam cũng phải liên tục theo dõi tình hình các quốc gia khác nhau và miễn thị thực và cấp phép thông quan đặc biệt cho những người có rủi ro an ninh thấp, giá trị ròng cao và dễ hòa nhập vào đất nước, qua đó thu hút thêm nhiều người thân của họ và công dân của nước họ đến Việt Nam đầu tư.
![]() |
Việc nhiều du khách quốc tế đến Việt Nam hơn sẽ giúp thúc đẩy vị thế của Việt Nam là một điểm đến hấp dẫn. |
PV: Một số quốc gia đã áp dụng hệ thống "visa thông minh" với các tiêu chí đánh giá linh hoạt và kiểm soát tự động. Việt Nam có nên áp dụng công nghệ để nâng cao hiệu quả quản lý visa không, thưa ông?
Tiến sĩ Justin Matthew Pang: Chắc chắn Việt Nam nên áp dụng công nghệ để nâng cao hiệu quả quản lý visa. Việt Nam rất cần một hệ thống visa thông minh để đảm bảo dễ dàng nhận diện và trao cơ hội việc làm tại Việt Nam cho các chuyên gia có kỹ năng phù hợp.
Hiện nay, các quốc gia trêm thế giới đang cạnh tranh về lao động có kỹ năng và họ đang hành động nhanh chóng để thu hút nhân tài. Việt Nam phải có chiến lược quảng bá hiệu quả để thu hút những người tài giỏi nhất đến với đất nước chúng ta. Ngoài ra cũng cần phải có các chính sách hỗ trợ nhập cảnh và lưu trú dài hạn cho vợ/chồng và gia đình.
Cuối cùng, Việt Nam cần xây dựng thêm nhiều nền tảng sinh trắc học và điện tử để giảm thời gian ở các điểm xuất nhập cảnh như sân bay. Hệ thống kiểm tra hiện tại tại các điểm xuất nhập cảnh và hải quan quá thủ công và đôi khi có thể gây phiền hà cho nhiều người quốc tế đến Việt Nam (gồm cả khách du lịch và các nhà đầu tư tiềm năng).
Trân trọng cảm ơn ông về cuộc trao đổi!