Cần làm rõ cơ sở pháp lý quyền thu giữ tài sản bảo đảm Quốc hội bàn giải pháp tăng trưởng GDP 8% và gỡ nút thắt nền kinh tế |
Tại phiên thảo luận về Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng, hầu hết đại biểu Quốc hội đều nhất trí cần luật hóa Nghị quyết 42, coi đây là bước đi cần thiết nhằm thiết lập hành lang pháp lý ổn định, bền vững cho việc xử lý nợ xấu – một trong những vấn đề nan giải của ngành ngân hàng. Tuy nhiên, để đạt mục tiêu vừa bảo vệ quyền lợi tổ chức tín dụng, vừa tôn trọng quyền sở hữu hợp pháp của người dân, Dự thảo Luật cần tiếp tục được rà soát và hoàn thiện trên nhiều phương diện.
![]() |
Đại biểu Huỳnh Thị Phúc – Đoàn ĐBQH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Ảnh: Quochoi.vn) |
Một trong những điểm then chốt được đề cập nhiều là quy định về thu giữ tài sản bảo đảm. Đại biểu Huỳnh Thị Phúc (đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) nhận định, việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là tích cực, song hiện Khoản 5 Điều 198a chỉ mới yêu cầu chính quyền địa phương hỗ trợ an ninh trật tự, chưa có cơ chế cưỡng chế cụ thể khi bên bảo đảm cố tình không hợp tác. Do đó, bà Phúc đề nghị bổ sung quy định rõ ràng về cưỡng chế hành chính nhằm tăng tính khả thi trong thực tiễn.
Đồng tình quan điểm trên, đại biểu Nguyễn Hữu Thông (đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Thuận) nhấn mạnh sự cần thiết của việc hài hòa giữa quy định tại Điều 198c – liên quan đến hoàn trả tang vật là tài sản bảo đảm trong vụ án hình sự – với các đạo luật liên quan như Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Xử lý vi phạm hành chính. Theo ông, việc chậm hoàn trả tài sản có thể gây thiệt hại đáng kể cho các tổ chức tín dụng, do vậy cần quy định rõ thời hạn và trách nhiệm để tránh trì hoãn không cần thiết.
Đại biểu Trần Anh Tuấn (đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM) bổ sung thêm, cần thiết phải có cơ chế phối hợp chặt chẽ từ đầu giữa tổ chức tín dụng và chính quyền cấp cơ sở, cụ thể là UBND và công an cấp xã, phường, nhằm đảm bảo trật tự khi thu giữ tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, ông cũng đề nghị làm rõ giới hạn thẩm quyền, tránh lạm dụng gây ảnh hưởng đến quyền sở hữu hợp pháp theo quy định của Hiến pháp và Bộ luật Dân sự.
Bên cạnh đó, một mối quan ngại lớn được nhiều đại biểu nêu ra là tính pháp lý trong quá trình thu giữ tài sản mà không cần phán quyết của tòa án. Đại biểu Nguyễn Hữu Thông cảnh báo: nếu thiếu quy định bảo vệ quyền lợi bên bảo đảm, luật mới có thể dẫn tới tình trạng tranh chấp, khiếu kiện kéo dài. Ông kiến nghị cần làm rõ điều kiện, giám sát và quy trình xử lý khi tài sản có dấu hiệu tranh chấp, đồng thời không nên trao quyền cưỡng chế cho UBND cấp xã vốn không có thẩm quyền về mặt dân sự.
![]() |
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng (Ảnh: Quochoi.vn) |
Từ góc độ cơ quan quản lý, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng khẳng định luật hóa Nghị quyết 42 là bước đi đúng đắn. Thống đốc cho biết, khi xử lý được tài sản bảo đảm, ngân hàng không chỉ thu hồi vốn hiệu quả mà còn giảm áp lực nợ xấu, góp phần hạ lãi suất cho vay. Để bảo vệ bên vay, Dự thảo đã quy định minh bạch về quy trình thu giữ, đồng thời yêu cầu các ngân hàng xây dựng quy trình nội bộ chặt chẽ, đảm bảo tính hợp pháp và công khai.
Một nội dung trọng yếu khác cũng nhận được nhiều sự quan tâm là vấn đề ưu tiên trong phát mãi tài sản bảo đảm. Đại biểu Trần Anh Tuấn đề nghị cụ thể hóa quyền ưu tiên của tổ chức tín dụng trong trường hợp tài sản đã được thế chấp theo hợp đồng. Trong khi đó, đại biểu Trần Văn Tiến (đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Phúc) đề xuất phân biệt rõ ràng hai tình huống: nếu người giữ tài sản đã có thỏa thuận với chủ tài sản trước khi ký hợp đồng tín dụng thì phải có sự đồng thuận ba bên; còn nếu hợp đồng tín dụng đã ký trước thì tổ chức tín dụng có thể tiến hành thu giữ theo luật định.
Một trong những điểm nghẽn lớn nhất hiện nay nằm ở việc chuyển nhượng tài sản bảo đảm, đặc biệt với các dự án bất động sản. Theo nhiều đại biểu, mặc dù đây là một trong những giải pháp trọng yếu để xử lý nợ xấu, thực tế các tổ chức tín dụng lại gặp vô số rào cản pháp lý khi tiến hành chuyển nhượng. Đại biểu Huỳnh Thị Phúc cho biết, Điều 200 của Luật Các tổ chức tín dụng chưa đề cập cụ thể tới trường hợp chuyển nhượng dự án bất động sản là tài sản bảo đảm, khiến quá trình thực hiện bị đình trệ nghiêm trọng.
Cũng theo bà Phúc, nhiều tổ chức tín dụng dù đã đạt thỏa thuận với bên mua nhưng vẫn bị kéo dài do thiếu văn bản hướng dẫn hoặc phải chờ phê duyệt từ nhiều cơ quan: xây dựng, đất đai, tài nguyên môi trường… Tài sản vì vậy nhanh chóng xuống cấp, giảm giá trị, khiến cả ngân hàng và nền kinh tế đều chịu thiệt hại. Để khắc phục, bà kiến nghị cần bổ sung quy định cho phép việc chuyển nhượng có hiệu lực pháp lý ngay sau khi hoàn tất thủ tục theo hợp đồng, mà không cần chờ hướng dẫn từ các luật chuyên ngành khác.
Một số đại biểu khác cũng đồng tình và đề xuất thêm việc xây dựng cơ chế "một cửa liên thông" hoặc giao một đầu mối thống nhất trong xử lý hồ sơ chuyển nhượng tài sản bảo đảm. Đầu mối này sẽ chịu trách nhiệm phối hợp giữa cơ quan thuế, tài nguyên môi trường, chính quyền địa phương và các tổ chức tín dụng. Nhờ đó, quá trình xử lý nợ sẽ được rút ngắn, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người vay, tổ chức tín dụng và cả bên nhận chuyển nhượng.
Việc nợ xấu có xu hướng gia tăng trở lại trong nền kinh tế hiện nay, việc sửa đổi luật để luật hóa Nghị quyết 42 không chỉ là nhu cầu cấp bách mà còn là nền tảng pháp lý quan trọng để tạo lập sự minh bạch, hiệu quả và bền vững cho hoạt động xử lý nợ xấu trong thời gian tới.