| Bài liên quan |
| Cần làm rõ cơ sở pháp lý quyền thu giữ tài sản bảo đảm |
| Ngân hàng chính thức được quyền thu giữ tài sản bảo đảm nợ xấu từ tháng 10/2025 |
Trước đó, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) có kiến nghị gửi các cơ quan chức năng thông qua Bộ Tư pháp, đề nghị xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Thuế giá trị gia tăng để quy định rõ việc bán tài sản bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng, cơ quan thi hành án hoặc bên vay vốn tự bán theo ủy quyền của bên cho vay nhằm trả nợ khoản vay có bảo đảm, thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT.
Agribank cho rằng hoạt động bán tài sản bảo đảm không phải là hoạt động kinh doanh thông thường mà là biện pháp thu hồi nợ, do đó nếu vẫn phải tính thuế GTGT sẽ làm tăng chi phí xử lý nợ, giảm sức hấp dẫn của tài sản khi bán và kéo dài thời gian thu hồi nợ.
Tuy nhiên, Bộ Tài chính khẳng định việc bán tài sản bảo đảm được xem là hoạt động bán hàng hóa thông thường, do đó vẫn thuộc đối tượng chịu thuế GTGT nhằm bảo đảm nguyên tắc liên hoàn của sắc thuế này. Đồng thời, toàn bộ thuế GTGT đầu vào phát sinh liên quan đến hoạt động này vẫn được khấu trừ theo quy định hiện hành.
![]() |
| Không mở rộng diện miễn thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động bán tài sản bảo đảm |
Cơ quan này cho biết nội dung nói trên đã được xem xét, giải trình đầy đủ trong quá trình xây dựng Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15. Cụ thể, khoản 9 Điều 5 của Luật quy định đối tượng không chịu thuế GTGT, trong đó điểm h nêu rõ: “Bán tài sản bảo đảm của khoản nợ của tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ, do Chính phủ thành lập và có chức năng mua bán nợ để xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng Việt Nam.”
Theo đó, chỉ những tài sản bảo đảm thuộc phạm vi xử lý của tổ chức mua bán nợ do Nhà nước thành lập mới được miễn thuế GTGT. Các trường hợp còn lại, bao gồm hoạt động bán tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng hoặc cơ quan thi hành án, vẫn phải chịu thuế GTGT để đảm bảo nguyên tắc thống nhất trong quản lý thuế và cơ chế khấu trừ đầu vào.
Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng dẫn chiếu quy định tại Khoản 1 Điều 4 và Khoản 25 Điều 5 của Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15, theo đó trong trường hợp tài sản bảo đảm của tổ chức hoặc cá nhân không kinh doanh, không thuộc đối tượng nộp thuế GTGT thì việc bán tài sản này cũng không phải chịu thuế.
Như vậy, Bộ Tài chính tiếp tục khẳng định quan điểm không mở rộng diện miễn thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động bán tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng và cơ quan thi hành án, nhằm duy trì nguyên tắc liên hoàn của thuế GTGT và bảo đảm sự thống nhất trong hệ thống chính sách thuế.